45/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 398
- 6
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện đề ngày 02-4-2002 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Hà trình bày: Ông BĐ_Trần Văn Sâm là em ruột của bà; năm 1982 bà đưa ông BĐ_Sâm từ Miền Bắc vào ở cùng với bà, năm 1987 bà nhập hộ khẩu cho ông BĐ_Sâm vào cùng hộ khẩu của gia đình bà và xin việc làm cho ông BĐ_Sâm tại Công ty khoan cấp nước, thời điểm đó ông BĐ_Sâm chưa đủ tiêu chuẩn được cấp đất nên bà làm thủ tục xin một lô đất theo tiêu chuẩn gia đình liệt sỹ (ông Trần Văn Quế, em trai của bà là liệt sỹ) để làm nhà ở, nhưng để ông BĐ_Sâm đứng tên với ý định sau này bà sẽ đưa bố và ông Trần Văn Tám (em trai của bà) vào ở (vì bà đã có nhà ở riêng), do đó Sở xây dựng tỉnh ĐN đã cấp 250m2 đất đứng tên ông BĐ_Sâm; sau khi được cấp đất, bà bỏ tiền san ủi mặt bằng, đền bù tiền hoa màu, lấn thêm đất xung quanh nên diện tích đất hiện nay là 404m2; đồng thời bà bỏ tiền ra xây dựng căn nhà cấp 4 và cho ông BĐ_Sâm ở tại căn nhà này (vì trước đó ông BĐ_Sâm vẫn ở chung cùng với gia đình bà);
379/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2315
- 35
Theo các đơn khởi kiện ngày 29-10-2003 (BL06), ngày 29-10-2003 (BL08) và đơn ngày 29-10-2003 đề nghị ngăn chặn việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị NĐ_Ngô Thị Cư trình bày ông nội của chị là cụ Ngô Văn Phòng, chết năm 1975 và bà nội là cụ Nguyễn Thị Tươi, chết ngày 9-6-1995 sinh được 4 người con, là: 1. Ông BĐ_Ngô Tấn Linh, sinh năm 1958; 2. Bà Ngô Thị Nhứt, chết ngày 22-12-1982, có 3 người con là LQ_Lê Thị Hạ, LQ_Lê Thị Di và LQ_Lê Thị Khanh; 3. Bà LQ_Ngô Thị Mừng, sinh năm 1964.
41/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 671
- 15
Bà NĐ_Ngô Thị Bến và ông BĐ_Trần Quốc Tín đăng ký kết hôn từ năm 1993, có một con chung. Năm 2001 phát sinh mâu thuẫn, ông BĐ_Tín xin ly hôn. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 257/DSST ngày 10-6-2003, Tòa án nhân dân quận GV, thành phố HCM đã xử cho ông BĐ_Tín được ly hôn bà NĐ_Bến, bà NĐ_Bến được nuôi dưỡng con chung là Trần Quốc Thắng (sinh năm 1995). Về tài sản: công nhận sự thỏa thuận của hai bên, bà NĐ_Bến được chia các đồ dùng trong gia đình, ông BĐ_Tín mua cho bà NĐ_Bến một căn nhà cấp 4 tại phường X, quận GV, diện tích 3,5m x 6m, có gác gỗ để đủ diện tích sử dụng là 40m2, thời hạn giao nhà là 06 tháng. Ông BĐ_Tín được sử dụng và đăng ký quyền sở hữu căn nhà 64/2A1 LVT, phường X, quận GV, và nhận trả toàn bộ số nợ của ông Mỹ.
38/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 375
- 11
Bà NĐ_Chánh và ông Phạm Văn Thiết có 05 người con gồm: Phạm Văn Sa, Phạm Văn Sâm, LQ_Phạm Thị Nhi, LQ_Phạm Thị Ninh, Phạm Văn Thân (hy sinh năm 1985). Năm 1962 do chính sách dồn dân lập ấp chiến lược, gia đình bà NĐ_Chánh và ông Thiết được cấp một nền gò nhà tại số 16/2 ấp 1, xã Phú Mỹ, huyện Nhà Bè (nay là số nhà 10/1A, khu phố 2, HTP, phường PN, quận X, thành phố HCM) có khuôn viên ngang 24,5m, dài khoảng 30m. Bà NĐ_Chánh và ông Thiết đã tạo dựng một căn nhà mái tole, cột gỗ, nền đất có diện tích 32m2 trên nền gò 312m2, xung quanh còn lại là ao vũng. Năm 1963 ông Thiết chết, bà NĐ_Chánh cùng các con tiếp tục sử dụng nhà đất trên. Năm 1977 bà NĐ_Chánh có đăng ký kê khai nhà đất, năm 1984 kê khai theo chỉ thị 299/TTg và đến năm 1999 tiếp tục đăng ký theo chỉ thị chung.
38/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 470
- 9
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Bà NĐ_Chánh và ông Phạm Văn Thiết có 05 người con gồm: Phạm Văn Sa, Phạm Văn Sâm, LQ_Phạm Thị Nhi, LQ_Phạm Thị Ninh, Phạm Văn Thân (hy sinh năm 1985). Năm 1962 do chính sách dồn dân lập ấp chiến lược, gia đình bà NĐ_Chánh và ông Thiết được cấp một nền gò nhà tại số 16/2 ấp 1, xã Phú Mỹ, huyện Nhà Bè (nay là số nhà 10/1A, khu phố 2, HTP, phường PN, quận X, thành phố HCM) có khuôn viên ngang 24,5m, dài khoảng 30m. Bà NĐ_Chánh và ông Thiết đã tạo dựng một căn nhà mái tole, cột gỗ, nền đất có diện tích 32m2 trên nền gò 312m2, xung quanh còn lại là ao vũng. Năm 1963 ông Thiết chết, bà NĐ_Chánh cùng các con tiếp tục sử dụng nhà đất trên. Năm 1977 bà NĐ_Chánh có đăng ký kê khai nhà đất, năm 1984 kê khai theo chỉ thị 299/TTg và đến năm 1999 tiếp tục đăng ký theo chỉ thị chung.