cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

156/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 279
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-07-2006

Bà Lộc Thị Chi và anh NĐ_Vi Văn Oanh ủy quyền trình bày: nguồn gốc diện tích đất tranh chấp nằm lọt giữa khu đất tại rừng Khum Cang của gia đình bà đang sử dụng hơn 700m2 và do bố mẹ chồng bà sử dụng từ năm 1964 để trồng trám, mít, bạch đàn... Năm 1986 gia đình bà đã chặt một số cây làm nhà cửa, năm 1992 gia đình tiếp tục chặt cây không có ai tranh chấp. Năm 1994 gia đình bà được Ủy ban nhân dân huyện LB cấp sổ đỏ bìa xanh đối với khu rừng Khum Cang, diện tích 1,58 ha trong đó cả đất tranh chấp. Từ đó gia đình bà vẫn tiếp tục quản lý sử dụng đất trồng cây. Năm 2001, anh BĐ_Vi Văn Đoàn đến tranh chấp đất với lý do đó một gia đình anh BĐ_Đoàn có một nền nhà cũ trên đất khu rừng Khum Cang của gia đình bà. Nay con bà là NĐ_Vi Văn Oanh đứng tên trên sổ bìa xanh giai đình bà không nhất trí trả đất cho anh BĐ_Đoàn.


163/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 384
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-07-2006

Theo ông NĐ_Thế trình bày: cha mẹ của ông là Nguyễn Đình Lan và Nguyễn Thị Hệ sinh được 3 người con gồm NĐ_Nguyễn Văn Thế, Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Thị Thể. Năm 1968, bà Hệ chết, sau đó ông Lan kết hôn với bà Nguyễn Thị Chắt, đến năm 1975 thì ông Lan chết, ba anh em ông về sống với ông bà ngoại, nhà đất tại xóm 12, xã HL do bà Chắt quản lý, năm 1997 bà Chắt chết để lại di sản thừa kế cho anh em ông. Từ năm 1994 cán bộ xóm và ban quản lý Hợp tác xã HL đã cắt một phần đất của bà Chắt để cấp cho gia đình ông Nguyễn Văn Cát cất nhà cho bà BĐ_Nguyễn Thị Phượng ở. Nay yêu cầu ông trả lại đất vì việc cắt đất của chính quyền là không đúng.


149/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 217
  • 8

Tranh chấp quyền sử dụng đất

17-07-2006

Theo đơn khởi kiện ngày 18/3/2005, nguyên đơn trình bày: tháng 1/1996 ông NĐ_Vũ Đình Lâm làm đơn xin cấp đất xây dựng nhà ở. Ngày 24/8/1996 được ủy ban nhân dân xã Hòa Khánh xác lập hồ sơ giao đất tại bản đồ số 5, thửa 291, diện tích 200m2 do ông Dương Thành Thị - Chủ tịch xã ký đóng dấu. Sau đó, ông NĐ_Lâm làm ngôi nhà cấp 4, trồng trụ rào bảo vệ bằng kẽm gai, đóng giếng khoan trên diện tích đất được cấp nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Năm 2000, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn An Nhật Tú đã đập phá hàng rào, giếng khoan để xây móng đá hộc và lấn chiếm phần đất của ông NĐ_Lâm khoảng 82m2.


16/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 557
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

05-07-2006

Trước đây, cụ Nguyễn Công có xây dựng một khu nghĩa địa tại thôn Bái Ân, xã NĐ, huyện TL, thành phố HN (nay là ngách 3 ngõ 191, tổ 9, phường NĐ, quận CG, thành phố HN). Khu nghĩa địa rộng 2185 m2 có cổng trước, cổng sau, tường rào bao quanh. Trong khu nghĩa địa có: 1 nhà để thờ cúng diện tích khoảng 27m2, 1 nhà văn bia khoảng 8m2 và 22 ngôi mộ. Cụ Nguyễn Công chết năm 1947 không để lại di chúc. Năm 1955, cụ Lý Thị Mùi (vợ thứ 3 của cụ Công) có thuê bà Nguyễn Thị Hội trông coi khu nhà thờ và nghĩa địa (không có hợp đồng bằng văn bản).


15/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 791
  • 10

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

06-06-2006

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/8/2001, và trong quá trình giải quyết vụ án, bà NĐ_Ngô Thị Hạnh trình bày: Bà và ông Hàng Việt (chết ngày 23/11/1995) là vợ chồng chung sống từ năm 1950, có hai con chung là LQ_Trần Thanh Hoành, LQ_Hàng Lưu Sáng và một con nuôi là LQ_Hàng Huệ Lan; hai con Thanh Hoàng và Lưu Kim hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Năm 1950 bà và ông Hàng Việt thuê căn nhà số 112 Nhân Vị, sau đổi thành Trần Hùng Quân (nay là số 240 NCT, phường X, quận M, thành phố HCM) của ông Trương Văn Bền để ở. Sau giải phóng vì căn nhà trên thuộc diện nhà do nhà nước quản lý nên thay vì ký hợp đồng với chủ nhà, vợ chồng bà tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với đội quản lý nhà thuộc ban xây dựng nhà đất quận M (hợp đồng thuê nhà số 325 ngày 05/11/1982 do chồng bà tên là Hàng Việt đứng tên thuê). Đến năm 1985, vợ chồng bà tiến hành thủ tục mua đứt căn nhà trên nhân đợt Nhà nước hoá giá nhà.