cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1850
  • 40

Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

14-09-2012
TAND cấp huyện

Ông Phạm Văn Trí đại diện cho ông NĐ_Võ Văn Tuấn và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang trình bày: nguồn gốc đất diện tích khoảng 11.000m2 thửa số 930, 931, 932, 933 tờ bản đồ số 12 cùng tọa lạc tại ấp Phú Hòa, xã LĐ, thành phố TV, tỉnh TV là của ông bà, cha mẹ cho lại bà Võ Thị Bửu Ân và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang canh tác từ sau giải phóng đến nay. Bà Võ Thị Bửu Ân do bị mất năng lực hành vi dân sự nên nhiều năm nay anh NĐ_Tuấn con bà Ân trực tiếp canh tác, cất nhà ở ổn định và đã đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 930 diện tích 1.610m2, thửa số 933 diện tích 4.460m2. Phần còn lại do bà NĐ_Võ Thị Minh Trang khai thác canh tác, cất nhà, trồng cây trái, cây lâu năm, sử dụng ổn định trên 30 năm nay và có đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 931, 932 diện tích 4.970m2


06/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 742
  • 9

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giao đất

10-07-2012
TAND cấp huyện

Ông LQ_Tuấn trình bày: Vào khoảng năm 1954, ông Nguyễn Văn Báu khai phá phần đất 09 công chiều ngang, chiều dài tính từ sông Gành Hào đến Kinh Quản Húi và giao cho con ruột là bà Nguyễn Thị Tám quản lý, sử dụng. Đến năm 1968, địch đóng đồn nên tất cả phải đi di dân đi nơi khác sinh sống nên bỏ đất hoang. Đến năm 1975, gia đình ông trở về canh tác. Đến năm 1976, do đê bị vỡ nhà nước huy động nhân dân đắp đê ngăn mặn nên đất chia thành 02 phần trong đê và ngoài đê.


03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1454
  • 43

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

23-05-2012
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện và được bổ sung tại phiên tòa, ông NĐ_Phạm Văn Tuấn và bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc trình bày: Vào năm 1995, chúng tôi được Ủy ban nhân dân thị xã CM (nay là thành phố CM) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất tọa lạc tại ấp Tân Trung, xã HT, thành phố CM, có diện tích 2.740m2, nguồn gốc do mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Hai cho tặng. Do hoàn cảnh khó khăn của gia đình, chúng tôi phải đi làm ăn xa không người quản lý đất, đến năm 2006 khi trở về, chúng tôi phát hiện Ủy ban nhân dân xã HT đã tự ý chiếm dụng và phân lô cho thuê. Chúng tôi đã gửi đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết trả lại. Ông Trần Hòa Xuân là BĐ_chủ tịch Ủy ban nhân dân đã dựng lên việc tranh chấp đất này giữa ông và ông Phạm Văn No. Qua 2 cấp Tòa án xét xử, bằng Bản án dân sự phúc thẩm số 201/2006/PTDS ngày 18/05/2006 Tòa án nhân dân tỉnh CM đã tuyên xử buộc phải trả lại tôi hiện trạng phần đất đã nêu trên. Khi bản án có hiệu lực pháp luật tôi đã gửi đơn với đầy đủ thủ tục hợp lệ để yêu cầu thi hành án. Bằng Quyết định số 1784/QĐ-THA của cơ quan thi hành án dân sự thành phố CM tuy nhiên từ đó đến nay bản án vẫn không được thi hành do quyết định sai trái do ông Hứa Minh Hữu ký ban hành có nội dung thu hồi quyền sử dụng phần đất nêu trên của tôi mà không có lý do chính đáng.


32/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1309
  • 27

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

16-08-2010

Ngày 20/11/2003, cụ Tiềm lập di chúc (có công chứng chứng thực) cho ông BĐ_Tín lô đất thứ nhất. Ngày 03/12/2003, cụ Tiềm chết. Bà NĐ_Trinh và bà NĐ_Duyên khởi kiện cho rằng trong lô đất thứ nhất thì tài sản chung của cụ Phúc, cụ Tiềm chỉ là 400m2, diện tích đất còn lại là do các ông, bà cùng cụ Tiềm khai phá, lấn rộng ra xung quanh, vì vậy, việc cụ Tiềm lập di chúc cho ông BĐ_Tín lô đất này là không đúng; hơn nữa khi lập di chúc cụ Tiềm bị điếc và lú lẫn, nên đi chúc này không hợp pháp. Đối với lô đất thứ 2, ông BĐ_Tín tự ý kê khai đứng tên là không đúng. Do đó, đề nghị Tòa án chia thừa kế cả hai lô đất trên theo quy định của pháp luật; đối với diện tích đất cụ Tiềm, ông BĐ_Tín đã chuyển nhượng cho ông LQ_Bùi Văn Khang thì yêu cầu ông LQ_Bùi Văn Khang trả lại, ông BĐ_Tín có trách nhiệm trả lại tiền cho ông LQ_Khang.


445/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 358
  • 12

Tranh chấp thừa kế

03-07-2010

Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/7/2006 và trong quá trình tố tụng, các nguyên đơn trình bày: - Ông Nguyễn Trung Thu, chết năm 1970 và vợ là bà Nguyễn Thị Nhổ, chết ngày 30/9/2003 đều không để lại di chúc, có 3 con là anh NĐ_Nguyễn Trung Thành, chị NĐ_Nguyễn Thị Viên và anh BĐ_Nguyễn Trung Hải. Tài sản cha mẹ để lại gồm có 02 căn nhà tường và 1 nhà dưới trên 432m2 đất thổ cư tại thửa 79, tờ bản đồ số 10 và 4.251m2 đất lúa đứng tên bà Nhổ. Sau khi cha mẹ chết anh BĐ_Hải quản lý. Anh NĐ_Thành yêu cầu chia toàn bộ tài sản nêu trên theo pháp luật; còn chị NĐ_Viên chỉ yêu cầu chia nhà và đất thổ cư.