126/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1955
- 83
Tại đơn khởi kiện ngày 06-3-2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Sông trình bày: Bố ông là cụ Nguyễn Đình Chiện (chết năm 1998), mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Mở (chết năm 2005). Bố mẹ ông có 04 người con gồm ông, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hương, bà Nguyễn Thị Lan. Trước đây gia đình ông ở số 2 Hàng Bún, còn bác ông là Nguyễn Đình Nhuần ở số 10 Hàng Bún. Khi đi sơ tán về thì nhà của bác bị Nhà nước lấy giao cho người khác sử dụng, nên bố ông đã nhường nhà số 2 Hàng Bún cho cụ Nhuần ở, gia đình ông đi thuê nhà, ông Đỗ Trọng Thành là người ký hợp đồng cho bố ông thuê tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc ngày 01-02-1972. Nhà 19 Thuốc Bắc thuộc quyền sở hữu của 05 anh chị em ông Thành gồm ông Đỗ Trọng Thành, bà Đỗ Thị Ngà, bà Đỗ Song Toàn, bà Đỗ Thị Nguyệt, ông Đỗ Trọng Cao. Do ông Cao cần tiền chữa bệnh nên đã bán 01 buồng 38m2 tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông, hợp đồng ông Cao ký bán không ghi ngày tháng năm, giá bán là 6550 đồng, ông Cao đã nhận đủ tiền
26/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1375
- 21
Tài sản của cụ Phúc và cụ Thịnh tạo lập được gồm khoảng 200m2 đất trên có 2 ngôi nhà 2 tầng, khu công trình phụ và một số đồ dùng sinh hoạt khác tại số 708 đường Ngô Gia Tự, phường Ninh Xá, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (sau đây gọi tắt là số 708 đường Ngô Gia Tự). Ngoài ra, cụ Phúc và cụ Thịnh còn tạo lập được 1 thửa đất khác tại số 167 Nguyễn Văn Cừ thuộc khu Ninh Xá 3, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi cụ Phúc chết thì cụ Thịnh cho riêng ông Vũ thửa đất tại 167 Nguyễn Văn Cừ, nhưng do làm ăn thua lỗ, hoàn cảnh khó khăn nên ông Vũ đã bán được 450.000.000đ. Nay các ông, bà đề nghị được chia phần tài sản của cụ Phúc để lại gồm nhà và đất tại số 708 đường Ngô Gia Tự hiện vợ chồng ông Vân đang quản lý. Các ông, bà xin được chia bằng hiện vật.
115/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1038
- 13
Năm 1968, cụ Vy chết; ông và cụ Nguyễn Thị Tất đồng ý cho bà BĐ_Nguyễn Thị Châu (là em cửa ông) dựng nhà ở tạm trên một phần đất, nhưng sau đó bà BĐ_Châu chiếm toàn bộ nhà đất nêu trên. Năm 1994, được sự ủy quyên của cụ Tât, ông đã khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Châu trả lại nhà đất và tại Quyết định số 67/QĐ ngày 29/10/1996, Tòa án nhân dân thành phố H đình chỉ giải quyết vụ án với lý do: cụ Tất khởi kiện đòi lại nhà cho ở nhờ, nhưng đã chết. Sau đó, ông tiếp tục có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản nêu trên, nhưng do em trai ông là ông LQ_Nguyễn Đình Thức đang ở nước ngoài nên Tòa án nhân dân tỉnh TTH tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đến ngày 08/11/2006, Tòa án nhân dân tỉnh TTH có thông báo tiếp tục giải quyết vụ án. Ông yêu cầu chia thừa kế tài sản của bố mẹ ông để lại theo quy định của pháp luật.
334/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1491
- 40
Cố Đệ và cố Sảnh chết, không để lại di chúc. Theo quyết định của hội đồng gia tộc ngày 31/12/1963 thì có 10.000m2 là đất hương hỏa và giao cho cụ Son quản nhiệm, đồng thời cũng đề cử cụ Sòn giám hộ cho ông Nguyễn Tấn Kiến sinh năm 1948 (BL147-154). Sau khi cụ Son chết, những người thừa kế của cụ Son và cụ Sự đã lập tờ thuận phân diện tích 10.000m2 đất hương hỏa nói trên vào ngày 24/3/1991. Mỗi bên nhận phần bằng nhau có diện tích 5.000m2. Căn nhà ngói 3 gian của cố Đệ và cố Sảnh được chia cho ông Nguyễn Tấn Kiển quản lý phần gian bên trái. Cụ Son quản lý phần gian giữa và gian bên phải (BL152). Lúc sinh thời cụ Son có chia cho ông sử dụng thửa 125 với diện tích là 3.275m2. Phần còn lại ông BĐ_Quý và các con sử dụng cho đến nay. Trên phần đất này có căn nhà hương hỏa xây dựng trên diện tích 1.053m2 tại số 108/95/94 NVH, phường AP, quận NK, thành phố CT. Ông NĐ_Trà yêu cầu chia thừa kế căn nhà và diện tích đất này. Ông là con trai duy nhất của cụ Son và cụ Tụy nên ông sẽ đảm nhiệm việc thờ cúng.
97/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 529
- 32
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Tại đơn khiếu nại nhà đất bị chiếm đoạt ngày 01/12/1998 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Đỗ Đại Đạo trình bày: Năm 1986, bà NĐ_Lâm Thị Hải (vợ của ông) mua của bà Nguyễn Thị Sét ngôi nhà tường lơp lá gắn liền 500m2 đất có trồng cây ăn trái tại ấp Mỹ Cẩm A, xã Mỹ Hòa, huyện CN (nay là khóm Mỹ cẩm A, xã Mỹ Hòa, thị trấn CN), tỉnh TV. Sau khi mua, ông bà và các thành viên trong gia đình đến ở nhà đất này. Ngày 01/01/1989, bà NĐ_Hải làm “Tờ ủy quyền” và “Tờ di chúc” cho chị Đỗ Hải Phượng (con của ông và bà NĐ_Hải) sở hữu nhà đất nêu trên. Ông có xác nhận phía sau di chúc là: di chúc do bà NĐ_Hải viết; nội dung, chi tiết, quan hệ gia đình là đúng sự thật; nhất trí với bà NĐ_Hải là cho chị Phượng làm chủ nhà đất.