60/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 892
- 10
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Diện tích đất tại số 45 đường PXH, thành phố QN nằm trong thửa đất thổ cư có trích lục cũ số 87, chứng thư kiến điền 43 mang tên Tạ Ngân, ông Tạ Ngân chết để lại cho ông Tạ Đăng. Năm 1956 ông Tạ Đăng bà Trần Thị Nhược (là cha mẹ của nguyên đơn) xây dựng một ngôi nhà hai căn có diện tích 56m2. nằm trên diện tích đất 135m2, năm 1988 ngôi nhà này có số 03 đường LL, thị xã QN (nay đổi thành số 45 đường PXH, thành phố QN). Cấu trúc nhà mái lợp tol, nền xi măng, xây nhà xong gia đình các ông, bà ở một thời gian, sau đó cho bà Nguyễn Thị Lan thuê để ở, bà lê Thị Quýt tiếp tục thuê nhà cho cha, mẹ và các ông bà. Gia đình các ông bà (nhiều lần yêu cầu bà Lê Thị Quýt trả lại nhà, nhưng bà Lê Thị Quýt không trả, năm 1996 Ủy ban nhân dân phường THĐ tiến hành hòa giải việc tranh chấp giữa hai bên ; ông Tạ Đăng với bà Lê thị Quýt có thỏa thùận thống nhất đến ngày 30-4-1996 bà Lê Thị Quýt sẽ trả cho ông Tạ Đăng 20 (hai mươi) lượng vàng 24K, ông Tạ Đăng sẽ làm thủ tục chuyển nhượng nhà cho bà Lê Thị Quýt, nếu quá thời hạn này hai bên không thực hiện, ủy ban nhân dân phường sẽ chuyển hồ sơ lên Tòa án nhân dân giải quyết. Đến hạn bà Lê Thị Quýt không thực hiện, nên Ủy ban nhân dân phường THĐ chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân thị xã QN (nay là Tòa án nhân dân thành phố QN) giải quyết
25/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 990
- 17
Tại đơn khởi kiện ngày 03/4/1995 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn ông NĐ_Đào Xuân Minh trình bày: Ngôi nhà số 6 ngõ Bảo Khánh là nhà gạch 1 tầng, diện tích 175m2 trên thửa đất số 1666/1, diện tích 278m2, mang bằng khoán điền thổ số 2253 khu Nhà thờ thuộc sở hữu của các cụ tổ họ tộc họ Đào là: Đào Xuân Mậu, Đào Xuân Hương và một số người thân thuộc khác. Năm 1924 cụ Đào Bá Hoan là người được quản lý nhà thờ đã viết di chúc cho cụ Đào Xuân Nhận quản lý ngôi nhà thờ họ Đào này (tài liệu tại hồ sơ án không phản ánh mối quan hệ giữa cụ Mậu, cụ Hương, cụ Nhận trong tộc họ Đào). Năm 1940 cụ Nhận chết đột ngột, ông là con trai duy nhất của cụ Nhận và thuộc ngành trưởng nên được tiếp tục quản lý nhà này, nhưng lúc đó, ông mới được một tuổi nên mẹ ông là cụ Đỗ Thị Xuất (tức Tơ) đã quản lý thay ông.
05/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 623
- 10
Năm 1949 cụ Đương chết không để lại di chúc. Năm 1950 cụ Trạng kết hôn với cụ Nguyễn Thị Mến có hai người con chung là ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ và ông LQ_Nguyễn Minh. Năm 1982 cụ Trạng- chết, năm 1983 cụ Mến chết đều không để lại di chúc. Sau khi cụ Mến chết, tài sản để lại là căn nhà ngói 3 gian trên diện tích đất 1.200m2 tại thôn câu Lâu Đông, xã DP, huyện DX, tỉnh QN, hiện do gia đình ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ quản lý, sử dụng. Năm 1992, anh NĐ_LQ_Nguyễn Quang Phong, bà LQ_Nguyễn Thị Hoa, bà LQ_Nguyễn Thị Mai, ông LQ_Nguyễn Nghị và bà LQ_Nguyễn Thị Lài (là các con, cháu của cụ Trạng, cụ Đương) khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của cụ Trạng, cụ Đương. Bị đơn là ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ đồng ý chia thừa kế, nhưng yêu cầu xem xét đến công sức của vợ chồng ông trong việc tu bổ đất, sửa chữa nhà.
60/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 867
- 18
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nguồn gốc thửa đất diện tích 3 sào 8 thước tại tổ 9, khu vực 9, phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ là của cha mẹ bà là vợ chồng cụ Nguyễn Sáng, cụ Nguyễn Thị Hồ (hai cụ được chế độ cũ cấp trích lục địa bộ). Bà được cha mẹ cho 300m2trong tổng số diện tích đất nêu trên. Năm 1957, bà dựng một căn nhà mái lợp tranh, tường trát đất, nền gạch thẻ, diện tích 10m2. Năm 1960, gia đình cụ Lê Văn An (là cha của ông BĐ_Lê Văn Mạnh) tản cư, đến xin ở nhờ; việc cho ở nhờ chỉ nói miệng. Năm 1975 căn nhà dột nát, bà đồng ý để cụ An sửa chữa lại. Sau đó cụ An sửa chữa nhiều lần và nới rộng diện tích nhà rồi giao lại cho ông BĐ_Mạnh quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà đến gặp ông BĐ_Mạnh đòi lại nhà, nhưng vợ chồng ông BĐ_Mạnh không trả. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Mạnh trả lại nhà, đất cho bà.
47/2008/DS-TT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 745
- 19
Năm 1937, vợ chồng cụ Nguyễn Huy Bích và Nguyễn Cống Truật nhận bà làm con nuôi do các cụ không có con. Tuy bà không có các giấy tờ về thủ tục nhận con nuôi của các cụ, nhưng thực tế bà đã được các cụ nuôi dưỡng ngay từ lúc bà còn rất nhỏ tại nhà của các cụ tại số 9 VM, phường VM, thành phố HN. Năm 1952, cụ Bích chết và năm 1976, cụ Truật chết đều không để lại di chúc; bà là người duy nhất được thừa kế nhà số 9 VM của cụ Bích và cụ Truật.