08/2015/HCST: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Sơ thẩm Hành chính
- 714
- 18
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tháng 01/2007, ông NĐ_Nguyễn Hữu Chiến nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 1.706,6m2 thuộc một phần thửa 511, tờ bản đồ số 66 (theo tài liệu 2004-2005), ranh giới đất được xác định theo bản đồ hiện trạng vị trí số 24970/GĐ-TNMT do Trung tâm Đo đạc bản đồ Thành phố HCM lập ngày 13/01/2007. Ngày 23/3/2007, UBND phường TX có công văn số 89/UBND từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông NĐ_Chiến. Ông NĐ_Chiến đã gửi đơn nhiều lần nhưng đến ngày 04/8/2009 UBND Quận X trả lời bằng công văn 1517/UBND-TNMT không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông NĐ_Chiến với lý do là hộ gia đình ông NĐ_Chiến không sử dụng phần đất nêu trên. Ông NĐ_Chiến tiếp tục khiếu nại và được trả lời bằng quyết định giải quyết khiếu nại số 43/QĐ-UBND ngày 15/8/2011, bác khiếu nại của ông NĐ_Chiến và giữ nguyên công văn 1517/UBND-TNMT ngày 04/8/2009.
30/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 495
- 15
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/01/2012, các bản tự khai và các biên bản đối thoại tại Tòa án người khởi kiện ông NĐ_Phan Văn Thà trình bày: căn nhà và đất số 304/40B tổ 21 khu phố 2, phường ALĐ, Quận X, Thành phố HCM do ông và bà LQ_Huỳnh Thị Thước (vợ ông) là chủ sử dụng, bị giải tỏa thuộc dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm theo quyết định thu hồi và giao đất số 1997/QĐ-UB ngày 10/5/2002 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố HCM. Ngày 12/11/2009, Chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 15395/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với gia đình ông với tổng số tiền là 1.257.855.100 đồng. Về tái định cư: được bố trí nền đất hoặc căn hộ chung cư theo giá tái định cư với diện tích tiêu chuẩn 200m². Không đồng ý với nội dung quyết định nói trên, ông đã khiếu nại đến BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X. Ngày 05/12/2011, Chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 15683/QĐ – UBND – TTr về giải quyết khiếu nại của ông với nội dung: “Giữ nguyên Quyết định số 15395/QĐ-UBND ngày 12/11/2009 của Chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X”.
22/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 332
- 10
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Người khởi kiện bà NĐ_Nguyễn Thị Thơ có bà LQ_Nguyễn Thị Minh Phượng đại diện trình bày: bà NĐ_Nguyễn Thị Thơ là chủ sử dụng căn nhà số 128- Ven Sông- Tổ 23- Ấp Cây Bàng 2- Phường TT- Quận X và 68,11 m2 đất mà căn nhà tọa lạc. Nhà đất của bà NĐ_Thơ nằm trong khu quy hoạch giải tỏa khu đô thị mới TT, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 13123/QĐ-UBND ngày 22 tháng 9 năm 2009 về việc bồi thường tái định cư, theo nội dung của quyết định, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X chỉ bồi thường 57,27 m2, tức là nếu chọn tái định cư thì được bố trí căn hộ chung cư có diện tích 57,27 m2 và 203.944.700 đồng. Vì bà NĐ_Thơ không nhận tái định cư nên BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 4834/QĐ-UBND ngày 15 tháng 4 năm 2011 có nội dung điều chỉnh Điều 1 của quyết định số 13123/QĐ-UBND ngày 22 tháng 9 năm 2009 có nội dung bà NĐ_Thơ không nhận suất tái định cư mà nhận tiền cho nên bà NĐ_Thơ được đền bù là 1.127.264.700 đồng, còn lại 10,84 m2 thì không bồi thường với lý do là hẻm.
03/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1402
- 17
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất
Nội dung yêu cầu khởi kiện ông NĐ_Sao, bà NĐ_Rẻ đã nêu rõ trong đơn khởi kiện và biên bản đối thoại ngày 22/8/2013 tại tòa. Nay Đại diện theo ủy quyền của Người khởi kiện trình bày rõ hơn như sau: Về thời hiệu: Căn cứ biên bản làm việc ngày 01/12/2010 của Thanh tra Quận X, văn bản số 3193/UBND-BBT ngày 21/12/2010, BĐ_UBND Quận X đã trả lời việc thu hồi đất theo đúng quy định pháp luật. Việc trả lời này của BĐ_UBND Quận X là không phù hợp quy định pháp luật. Căn cứ Nghị quyết 56 của TAND tối cao hướng dẫn Luật Tố tụng Hành chính, đối với các quyết định hành chính về đất đai, nếu đã khiếu nại xảy ra từ 01/01/2006 trở đi mà không được giải quyết hoặc không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện tại tòa án. Thời hiệu xác định là 01 năm được tính từ ngày Luật Tố tụng Hành chính có hiệu lực. Căn cứ quy định này, việc bà NĐ_Rẻ đã thực hiện khởi kiện trong thời hạn luật định là phù hợp.
01/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1441
- 38
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Ngày 26/7/1981, văn phòng Trung ương mặt trận tổ quốc Việt nam – T31 có quyết định 107/QĐ – VP bố trí cho gia đình bà gồm có 03 người ở tầng trệt nhà 122 LTT, phường BT, Quận X – HCM, quyết định không nêu rõ diện tích là bao nhiêu. Ngày 20/10/2000, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định 156/QĐ – UB giải quyết phân chia diện tích sử dụng nhà 122 LTT, phường BT, Quận X – HCM: hộ bà NĐ_Thểu 01 nhân khẩu, sử dụng ((2,75m2 x 13,5 m2 ) + 8.3m2 x3,9m2) – (4,5m2 x1,84m2)) = 61,4m2. Ngày 07/4/2003, bà có ký hợp đồng thuê nhà với Công ty quản lý nhà Quận X với diện tích 61,4m2, thời hạn thuê là 60 tháng. Ngày 31/3/2003, Ủy ban nhân dân Thành phố HCM có Công văn số 1300/UBPC về việc trả lời khiếu nại cho bà, công nhận quyết định 156/QĐ – UB ngày 20/10/2000, bà được sử dụng phần tầng trệt với diện tích 61,4 m2 là đúng Ngày 29/12/2005, UBND Quận X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở với diện tích là 43,54m2 là không có cơ sở, không có căn cứ gây thiệt hại cho bà. Nay, bà yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB861610 ngày 29/12/2005 thay vì bà được cấp với diện tích 61,40m2.