78/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 325
- 6
Ông BĐ_Toàn có xuất trình 03 bản “Chúc thư giao quyền thừa kế” đề tên cụ Ca lập ngày 02/1/1996, có chữ ký đề tên ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin nhưng ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin đều cho rằng các ông không ký vào 03 chúc thư trên mà chỉ ký vào 01 tờ giấy trắng do ông BĐ_Toàn nhờ ký để làm thủ tục vay tiền của Ngân hàng, nên không thừa nhận các di chúc trên, nên yêu cầu chia thừa kế tài sản của 02 cụ cho 08 người con và chia bằng hiện vật; xin được sử dụng nhà gỗ 03 gian và diện tích đất được chia để làm nơi thờ cúng cha mẹ. Đồng thời, đề nghị Tòa án giám định 03 “Chúc thư giao quyền thừa kế” và giám định chữ ký của ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Tin, ông NĐ_Đinh trong 03 chúc thư trên.
64/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 427
- 15
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ông, bà yêu cầu ông BĐ_Thôi, bà BĐ_Thoa tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/4/1994 và phải làm thủ tục tách sổ đỏ đối với diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông, bà. Nếu Tòa án công nhận hợp đồng này thì ông, bà vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với anh LQ_Du, chị LQ_Vy và không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông, bà đồng ý trả cho anh LQ_Du, chị LQ_Vy số tiền tương ứng với diện tích đất mà anh LQ_Du, chị LQ_Vy đã trả theo giá tại Biên bản định giá ngày 22/4/2008 là 4 triệu đồng/m2. Trường hợp Tòa án không công nhận hợp đồng này thì ông, bà sẽ có trách nhiệm bồi thường cho anh LQ_Du, chị LQ_Vy do không thực hiện được hợp đồng, việc bồi thường theo giá thị trường. Ông, bà yêu cầu ông BĐ_Thôi, bà BĐ_Thoa thanh toán giá trị quyền sử dụng 5,5m2 đất đã mua của bà LQ_Ngọ và sau đó đã đổi cho ông LQ_Khoa, bà LQ_Lý theo giá thị trường.
29/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2502
- 53
Tuy chị BĐ_Phụng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị BĐ_Phụng không yêu cầu xem xét công sức vì chị BĐ_Phụng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị BĐ_Phụng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị BĐ_Phụng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.
254/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 429
- 5
Bà BĐ_Đan không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Sa, bà NĐ_Hằng, bà NĐ_Son, vì cho rằng bà là người trực tiếp quản lý, sử dụng đất từ năm 1975 đến nay, quá trình quản lý bà đã thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Đối với căn nhà của cụ Xấu và cụ Khoan hiện ông BĐ_Sinh đang quản lý sử dụng, bà BĐ_Đan thống nhất giao cho ông BĐ_Sinh được quyền nhận hưởng và quản lý sử dụng
170/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1058
- 17
Cụ Nguyễn Bút và cụ Nguyễn Thị Sồng có 7 người con chung là các ông bà: LQ_Nguyễn Thị Như, Nguyễn Xuân Hiển (hy sinh ngày 04/3/1968), LQ_Nguyễn Hải Duy, LQ_Nguyễn Cát Tiên, BĐ_Nguyễn Châu Bảo, NĐ_Nguyễn Cao Sáu, LQ_Nguyễn Thị cẩm Tứ. Năm 1977 cụ Bút chết, năm 2002 cụ Sồng chết đều không để lại di chúc. Về tài sản: Hai cụ tạo lập được khối tài sản là 01 căn nhà ngói 3 gian, 01 căn nhà bếp và các công trình phụ trên diện tích khoảng 5.000m2 đất tại xóm 4 xã BX, huyện ĐT, tỉnh HT. Năm 2010, Nhà nước xây dựng cống Đức Xá, kênh trục sông Nghèn đi qua đất của 2 cụ và diện tích đất của hai cụ bị Nhà nước thu hồi khoảng 2000m2, ông BĐ_Bảo là người kê khai đất bị thu hồi và đền bù, số tiền đền bù 02 đợt gần 700.000.000đ. Hiện nay, diện tích thực tế còn lại khoảng trên 3.000m2, tuy nhiên phần đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 1.020m2 mang tên cụ Nguyễn Thị Sồng. Nay yêu cầu chia tài sản thừa kế gồm tiền đền bù và phần đất nói trên cho các con. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông NĐ_Sáu chỉ yêu cầu chia thừa kế phần đất còn lại và chia số tiền đền bù đất (đợt 2) là 480.355.000đ