cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

128/2006/PS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 426
  • 6

Tranh chấp quyền sử dụng đất

19-06-2006

Cụ Kiều Văn Trễ và Nguyễn Thị Sờ sinh được 3 người con gái là bà NĐ_Kiều Thị Thìn, bà BĐ_Kiều Thị Ân và bà Kiều Thị Lạc. Khi còn sống, 2 cụ tạo lập được 3 gian nhà tranh vách đất trên thửa đất diện tích 422m2, tại thôn TN, xã Thanh Lăng, huyện BX, tỉnh VP. Trong 3 chị em gái thì chỉ có bà NĐ_Thìn và bà Lạc đi xây dựng gia đình, bà BĐ_Ân không lấy chồng và ở nhà sống cùng cha mẹ. Năm 1959 cụ Trễ chết không để lại di chúc. Năm 1982 bà BĐ_Ân đón chị Nguyễn Thị Oanh (con bà Lạc) về sống cùng bà và cụ Sờ. Năm 1992 bà BĐ_Ân và cụ Sờ dỡ nhà cũ xây thành nhà 5 gian cấp 4 và công trình phụ như hiện nay. Năm 1997 cụ Sờ chết. Năm 1998 bà BĐ_Ân kê khai và năm 1999 bà BĐ_Ân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 2.519m2 trong dó có 422m2 đất của cha mẹ để lại mà bà BĐ_Ân đang sử dụng làm nhà ở. Năm 2004, bà BĐ_Ân có ý định cho chị Oanh nhà đất, nên xảy ra tranh chấp giữa bà NĐ_Thìn và bà BĐ_Ân.


122/2005/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1442
  • 29

Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng

30-05-2006

Chị Nguyễn Thị Oanh Thước và anh Nguyễn Duy Khuyên kết hôn năm 1984. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năn 1999 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, năm 2002 chị Thước đã có đơn xin ly hôn và sau đó lại xin rút đơn ly hôn, vợ chồng quay về đoàn tụ nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Nay chị Thước tiếp tục xin ly hôn, anh Khuyên cũng nhất trí. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Thước và anh Khuyên.


111/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1017
  • 11

Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề

25-05-2006

Theo đơn khởi kiện và lời khai của ông NĐ_Lê Thước trình bày: Đất của gia đình ông đang ở là của cha ông để lại, trước năm 1975 không ai ở, sau năm 1975 gia đình ông trở về quê và làm nhà ở tại đất này. Năm 1983 gia đình ông đã kê khai và năm 1996 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích là 480m2, thuộc thửa 539, tờ bản đồ số 9. Đất của gia đình ông ở cạnh đất của ông BĐ_Lê Kim Thuyết. Ranh giới đất giữa hai gia đình là hàng cây sống và là đường thẳng, nhưng cách đây 5-6 năm (năm 2001) có một đoạn hàng rào cây bị chết, đôi bên đã rào bằng tre thay hàng cây để phân ranh giới. Năm 2001 ông BĐ_Thuyết xây chuồng heo đã lấn sang phần đất của gia đình ông, chỗ 5m, chỗ 1m. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Thuyết dỡ tường trả đất cho ông.


107/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 522
  • 8

Tranh chấp quyền sử dụng đất

22-05-2006

Theo khởi kiện và lời khai của ông NĐ_Diệp Bạc Thuyền do chị Diệp Thị Thanh Thủy được ủy quyền trình bày: Năm 1939 cụ Diệp Minh Lý và Lý Thị Siêu Há có cho cụ Trần Têm mượn một phần đất để cất nhà ở khoảng 70m2. Khi cụ Têm qua đời thì có hai người con của cụ Têm là ông BĐ_Trần Thông bà BĐ_Trần Thị Tiến sử dụng, nhưng cho đến nay diện tích đất có thay đổi, cụ thể là bà BĐ_Trần Thị Tiến đang ở căn nhà 97/1 THĐ và sử dụng 486m2 đất, còn ông BĐ_Trần Thông ở căn nhà số 97/2 THĐ và sử dụng 455m2. Tổng diện tích là 941m2 năm trong thửa số 1078 có diện tích 1855m2 ông NĐ_Thuyền đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện MX cấp năm 1993.


106/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 300
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

22-05-2006

Tại đơn khởi kiện ngày 24/2/2003 và lời khai của bà NĐ_Lê Thị Luyến trình bày: Diện tích 120,4m2 đất tại thửa 78 tờ bản đồ số 2 nay là thửa số 1/64 tờ bản đồ số 3 ấp 1, xã LQ, huyện GT, tỉnh BT có nguồn gốc từ vợ chồng cụ Nguyễn Ngọc Khuê và Lê Thị Huỳnh (là ông bà ngoại của bà NĐ_Luyến), trước đây vợ chồng cụ Huỳnh có bà Hai Rượu thuê đất. Cụ Khuê chết năm 1946 nên mẹ của bà là Nguyễn Thị Riếng quản lý. Năm 1962 bà Rượu chuyển đi nơi khác thì bà BĐ_Đặng Thị Biển vào sử dụng diện tích đất này. Sau giải phóng do thấy gia đình bà BĐ_Biển có khó khăn nên không đòi lại đất. Từ năm 1999 gia đình bà đòi nhiều lần nhưng bà BĐ_Biển không trả. Kể từ sau giải phóng cha của bà và sau đó là bà Vân kê khai đăng ký nộp thuế đầy đủ hàng năm, được Ủy ban nhân dân huyện GT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 6/5/1993. Nay yêu cầu gia đình bà BĐ_Biển trả lại đất.