cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

69/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 603
  • 15

Tranh chấp quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản

14-06-2013

Cụ Mạch Bững và cụ Nguyễn Thị Huỳnh có 13 người con, nhưng 5 người đã chết (khi còn nhỏ), còn lại 8 người là: bà LQ_Mạch Thị Bảo (đang ở Canada), bà LQ_Mạch Thị Thu Ca, ông BĐ_Mạch Văn Bình, ông LQ_Mạch Văn Tân (ở Hoa Kỳ), bà LQ_Mạch Thị Châu, ông LQ_Mạch Văn Minh, ông và bà LQ_Mạch Thị Thanh. Về tài sản: Hai cụ có căn nhà 80m2 (4m x 20m) trên phần đất tại khóm 1, thị trấn CL, huyện CL, tỉnh TV. Năm 1982 cụ Bững chết không để lại di chúc. Trước giải phóng năm 1975, ông BĐ_Bình lập gia đình và ở tại Bến Tre. Sau giải phóng, vợ chồng ông BĐ_Bình và con là anh BĐ_Mạch Thiên Kiên về ở chung nhà với hai cụ. Năm 1983, cụ Huỳnh kê khai đất theo Chỉ thị 299/TTg.


60/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 865
  • 18

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

11-06-2013

Nguồn gốc thửa đất diện tích 3 sào 8 thước tại tổ 9, khu vực 9, phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ là của cha mẹ bà là vợ chồng cụ Nguyễn Sáng, cụ Nguyễn Thị Hồ (hai cụ được chế độ cũ cấp trích lục địa bộ). Bà được cha mẹ cho 300m2trong tổng số diện tích đất nêu trên. Năm 1957, bà dựng một căn nhà mái lợp tranh, tường trát đất, nền gạch thẻ, diện tích 10m2. Năm 1960, gia đình cụ Lê Văn An (là cha của ông BĐ_Lê Văn Mạnh) tản cư, đến xin ở nhờ; việc cho ở nhờ chỉ nói miệng. Năm 1975 căn nhà dột nát, bà đồng ý để cụ An sửa chữa lại. Sau đó cụ An sửa chữa nhiều lần và nới rộng diện tích nhà rồi giao lại cho ông BĐ_Mạnh quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà đến gặp ông BĐ_Mạnh đòi lại nhà, nhưng vợ chồng ông BĐ_Mạnh không trả. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Mạnh trả lại nhà, đất cho bà.


49/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 740
  • 5

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

24-05-2013

Cùng ngày 20/12/1971, bà ký 2 hợp đồng mua của bà Phạm Thị Nghĩa căn nhà số 105 và mua của bà Trần Thị Nga căn nhà số 107 cùng tọa lạc tại đường số 6, bến PTH, khóm 5 Liên Gia 26, phường CH, quận X, đô thành SG cũ, giấy tờ mua bán đều được chính quyền chế độ cũ xác nhận; nay mang số kép là 105-107 ĐCL, phường 4, quận X Thành phố HCM. Sau 1975, bà xuất cảnh sang Hoa Kỳ, nên ủy quyền cho chồng bà là ông Nguyễn Kim Paul quản lý, sử dụng. Quá trình sử dụng nhà, ông Paul đã đưa bà BĐ_Linh về sống chung tại nhà tranh chấp trên. Ngày 01/7/2002, ông Paul chết. Ngày 14/7/2002, bà lập hợp đồng ủy quyền cho bà BĐ_Linh quản lý nhà đất này suốt đời với điều kiện không được thế chấp, cầm cố, cho thuê hoặc chuyển dịch quyền sở hữu dưới bất kỳ hình thức nào, mọi sự thay đổi kiến trúc phải có ý kiến của bà. Nhưng trong thời gian quản lý nhà, bà BĐ_Linh tự ý cho người khác thuê nhà, không được sự đồng ý của bà. Năm 2006, bà về Việt Nam bị bà BĐ_Linh đuổi ra khỏi căn nhà phải nhờ chính quyền can thiệp. Bà yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền quản lý nhà, bà BĐ_Linh phải trả lại nhà, bà đồng ý hỗ trợ bà BĐ_Linh 30.000.000đ để tìm nơi khác ở.


44/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 308
  • 4

Tranh chấp thừa kế

22-05-2013

Cố Giản và cố Kiên chết để lại di sản gồm một căn nhà từ đường cấp 4 (diện tích 75m2) trên lô đất thổ diện tích sau khi mở đường còn 1.043,8m2 thuộc thửa 550 và 551 tọa lạc tại thôn Phú Thạnh, xã VT, thành phố NT hiện do ông BĐ_Vinh quản lý nhà và phần lớn đất (cụ LQ_Mai và ông LQ_Ninh làm nhà trên một phần đất cùng trong khuôn viên) và một lô đất màu dùng làm nghĩa địa diện tích 1.384m2 thuộc thửa 439 và 440 cũng tại thôn Phú Thạnh, hiện do ông BĐ_Vinh quản lý toàn bộ.


822/2015/LĐ-PT Phúc thẩm Lao động

  • 7422
  • 381

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

08-07-2015
TAND cấp tỉnh

Bị đơn BĐ_Công ty TNHH Dentsu Việt Nam (có ông Đạt đại diện theo ủy quyền) cho rằng việc chấm dứt hợp đồng lao động giữa nguyên đơn ông NĐ_Peter Ryan Sorge với BĐ_Công ty TNHH Dentsu Việt Nam vào tháng 10/2011, nguyên đơn khởi kiện BĐ_Công ty TNHH Dentsu Việt Nam tại Tòa án cấp sơ thẩm vào ngày 10/10/2012 là trước khi Bộ luật lao động 2012 có hiệu lực nên phải áp dụng Bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung 2002, 2006 và 2007) làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Bộ luật lao động năm 2012 để giải quyết là không đúng.