104/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 281
- 7
Ông NĐ_Danh Lãnh và bà BĐ_Thị Thơm là anh em ruột, cùng là con của ông Danh Nhiếp (đã chết). Khi ông Nhiếp còn sống có nhiều đất, đã chia cho các con, chỉ để lại 2 công ông Nhiếp trực tiếp sản xuất, đến năm 2002 ông Nhiếp chết, ông NĐ_Lãnh vào sử dụng 1 vụ sau đó bà BĐ_Thị Thơm vào bao chiếm sử dụng thì xảy ra tranh chấp. Theo ông NĐ_Lãnh thì thửa đất bà BĐ_Thơm bao chiếm sử dụng làm thửa số 1016, tờ bản đồ số 15 diện tích 2890m2 thuộc ấp LS, ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995. Khi cha ông còn sống ở chung với ông và cha ông đã đồng ý để ông kê khai, nay cha ông chết thì ông là người được tiếp tục sử dụng. Ông yêu cầu bà BĐ_Thơm trả đất cho, ông và phải trả thóc mà bà BĐ_Thơm đã canh tác trong thời gian tranh chấp.
103/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 425
- 7
Ngày 10/3/2004 nguyên đơn anh NĐ_Nguyễn Minh Mạnh và chị Phan Thị Huyền Trinh yêu cầu Tòa án nhân dân quận ÔM thành phố CT buộc gia đình bà BĐ_Châu Thị Tạo và vợ chồng anh BĐ_Nguyễn Văn Chiến giao trả lại phần đất 789m2 cho gia đình anh sử dụng theo đúng nội dung cam kết trong tờ hợp đồng ở tạm đã ký ngày 23/11/1996. Theo đơn khởi kiện và lời khai của chị Trinh thì nguồn gốc đất đang tranh chấp là của ông, bà nội để lại cho bố chồng chị là ông Nguyễn Minh Kế. Ông Kế có cho ông Nguyễn Thành Cu và bà BĐ_Châu Thị Tạo là cha mẹ của anh BĐ_Chiến ở nhờ năm 1996 ông Kế cho vợ chồng chị 5.582m2 tại thửa 290, 291 trên đó có phần đất 789m2 gia đình anh BĐ_Chiến đang ở nhờ. Anh chị không đồng ý, nên viết “tờ hợp đồng về việc ở tạm” có chữ ký của hai bên và chính quyền địa phương xác nhận.
102/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 387
- 12
Ngày 19/12/2001, bà NĐ_Nguyễn Thị Thạch khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Nguyễn Thị Tiên tháo dỡ chuồng bò để trả đất. Theo bà NĐ_Thạch trình bày: Vào khoảng tháng 3 năm 2000 bà BĐ_Tiên có đơn yêu cầu ủy Ban Nhân Dân xã giải quyết bà NĐ_Thạch lấn chiếm đất của bà BĐ_Tiên, ngày 12/06/2001 tại ủy ban nhân dân xã hai bên cam kết nhờ đoàn đo đạc xác định ranh giới đất, nếu bên nào lấn chiếm thì phải tự tháo dở và chịu phí tổn đo đạc, chuồng bò của bà BĐ_Tiên nằm trên đất của bà NĐ_Thạch nhưng bà BĐ_Tiên không chịu thực hiện cam kết nên bà NĐ_Thạch khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Tiên tháo dỡ chuồng bò để trả đất.
100/2006/PS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 378
- 7
Ngày 28/4/2003 ông NĐ_Trần Văn Long có đơn khởi kiện yêu cầu ồng BĐ_Trần Văn Xiêm Và bà BĐ_Trần Thị Sông (tức Ngọc Ánh) trả lại phần diện tích đất hiện bà BĐ_Sông và ông BĐ_Xiêm đang sử dụng. Theo ông NĐ_Trần Văn Long trình bày: Cha mẹ ông là cụ Trần Văn Mẫn và cụ Nguyễn Thị Ba, trước khi các cụ qua đời có chia đất cho 5 người con. Phần đất của ông được chia gồm: 10 công đất ruộng, 7 công đất biền bãi và 5 công đất vườn. Việc phân chia không lập giấy tờ nhưng ông đã sử dụng từ năm 1963 và đã được Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/12/1995 với tổng diện tích là 33.350m2. Hiện nay bà BĐ_Sông (là chị gái) đã chiếm hết phần đất biền bãi trồng lá, ông BĐ_Xiêm (là anh trai) chiếm 2590m2 đất vườn và phần mương sổ nước có chiều ngang 6m, chiều dài 72m. Ông yêu cầu bà BĐ_Sông, Ông BĐ_Xiêm trả diện tích đất nêu trên.
07/2013/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 3213
- 128
Tranh chấp hợp đồng mua bán thép
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 để tính lãi chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi suất quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng nông nghiệp và phát triến nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam...) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật.