cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

91/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 337
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

28-07-2006
TAND cấp tỉnh

Diện tích đất 13.507 m2 đo đạc và chia thửa năm 2003 gồm các thửa 36, tờ bản đồ số 42 có diện tích 1.476 m2, thửa 686 tờ bản đồ số 36 diện tích 866 m2, thửa 1012 tờ bản đồ 36 diện tích 894m2, thửa 66 tờ bản đồ 20 diện tích 10.271 m2 - Toàn bộ diện tích đất này đã được UBND huyện CT cấp giấy chứng nhận cho ông Ngô Ngọc Hoàng vào ngày 7/12/1993, với diện tích 12.149 m2. Bà NĐ_Tủy cho rằng thửa 36 tờ bản đồ số 42 diện tích 1.476 m2 là do chế độ cũ cấp cho vợ chồng bà từ năm 1972, thửa 66 tờ bản đồ số 20 là đất nông nghiệp do vợ chồng bà NĐ_Tủy khai khẩn vào năm 1977, thửa 686 và 1012 diện tích 1.760 m2 là bà nhận chuyển nhượng của con trai Ngô Ngọc Long vào năm 1991. Hiện nay bà BĐ_Thạch là con dâu chiếm toàn bộ diện tích đất này, nên bà NĐ_Tủy yêu cầu bà BĐ_Thạch trả lại toàn bộ cho bà NĐ_Tủy.


87/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1670
  • 35

Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất

25-07-2006
TAND cấp tỉnh

Năm 1993, vợ chồng ông Nguyễn Văn Hùng và Bà LQ_Huỳnh Thị Ngọc Thủy có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Thanh Niêm và bà LQ_Nguyễn Thị Đông Thủy 01 lô đất với giá 7,4 lượng vàng 24k 98% và có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông BĐ_Nguyễn Thanh Thác 01 lô đất liền kề với giá 6,3 lượng vàng 24k 98%. Đến năm 1994, các bên mới lập giấy chuyển nhượng viết tay. Từ trước và khi chuyển nhượng cho đến nay, 02 lô đất nêu trên vẫn chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai. Vợ chồng ông BĐ_Sừng đã giao đủ tiền cho bên chuyển nhượng và đã nhận bàn giao đất theo thỏa thuận nêu trên.


72/2005/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 448
  • 8

Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất

30-05-2006
TAND cấp tỉnh

Ngày 23/3/2001, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Túy, bà NĐ_Trần Thị Tứ và vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Miểu, bà BĐ_Nguyễn Thị Tiếp có lập giấy tay về việc vợ chồng ông BĐ_Miểu, bà BĐ_Tiếp chuyển nhượng cho vợ chồng ông NĐ_Túy, bà NĐ_Tứ diện tích đất 1.000 m2 với giá 14.000.000đ. Đây là một phần trong tổng số diện tích đất 2.346 m2 thuộc thửa 588, tờ bản đồ 22 xã SN, đã được UBND huyện CT (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Nguyễn Miểu. Diện tích đất chuyển nhượng có tứ cận: Bắc giáp đường 11 rộng 20m, Nam giáp đất ông Tiến rộng 20m, Đông giáp đất ông Nguyễn Văn Thanh, Tây giáp đất còn lại của ông BĐ_Miểu. “Giấy sang nhượng”, do 2 bên lập ngày 23/3/2001 nêu trên đã được UBND xã SN xác nhận ngày 27/3/2001. Thế nhưng, cho đến nay hai bên vẫn chưa làm thủ tục sang tên vợ chồng ông NĐ_Túy.


19/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 410
  • 5

Ly hôn

08-05-2006
TAND cấp tỉnh

Theo bà Lê Thị Dững cho biết: Bà Dững và ông Tẩn kết hôn vào năm 1987, không có đăng ký kết hôn và không có con chung. Tài sản chung tạo lập được gồm 01 căn nhà ngói tọa lạc tại ấp 3, xã VL, huyện AP, tỉnh AG, 01 chiếc ghe trọng tải 140 tấn, 1,5 ha đất nông nghiệp, 01 nền nhà giá 10.000.000đ, 01 căn nhà bằng gỗ 30.000.000đ. Tài sản riêng gồm có: 12 chỉ vàng 24K, 300 giạ lúa. Vào năm 2001 con riêng của ông Tẩn về chung sống trong nhà đã xảy ra nhiều việc bất đồng cãi vã nhau trong gia đình đồng thời cũng phát hiện được ông Tẩn chưa ly hôn dứt khoát với người vợ cũ tên là Năm. Do đó bà yêu cầu Tòa án hủy hôn nhân trái pháp luật giữa bà và ông Tẩn. Về phần tài sản xin được chia theo pháp luật.


413/2006/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 286
  • 2

Ly hôn

27-04-2006
TAND cấp tỉnh

Bà Yến và ông Long chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1990 nhưng không đăng ký kết hôn. Trước khi chung sống với ông Long thì bà Yến đã từng chung sống với hai người đàn ông khác như sau: Từ năm 1980 đến năm 1983, bà Yến chung sống với ông Trần Văn Sơn nhưng không đăng ký kết hôn, hai đương sự có hai người con đã thành niên (hiện nay không ai biết ông Sơn đang ở đâu). Từ năm 1980 đến năm cuối năm 1990, bà Yến chung sống với ông Bùi Văn Xiêm nhưng không đăng ký kết hôn; hai đương sự cố một người con chung đã thành niên. Trong thời gian chung sống, bà Yến và ông Long có hai người con chung tên là: Nguyễn Hoàng Oanh (nữ, sinh năm 1992) và Nguyễn Hồng Nhạn (nữ, sinh năm 1994).