149/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 327
- 1
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Hảo xác đinh yêu cầu khởi kiện như sau: Bà NĐ_Hảo cho bà BĐ_Trần Tú Linh vay tiền, tổng cộng 3 lần, với tổng số tiền là 110.000.000 (một trăm mười triệu) đồng, cụ thể như sau: Lần một: Ngày 14/01/2008, cho bà BĐ_Linh vay 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng, lãi suất 3% tháng, khi vay có thế chấp chủ quyền nhà đứng tên vợ chồng bà BĐ_Linh và ông LQ_Hùng, hai bên có lập giấy tay do bà LQ_Trần Thị Thu Hương viết và cùng bà BĐ_Linh ký tên, Lãi suất sẽ trả cùng thời điểm trả vốn, thời hạn vay là 4 tháng. Lần hai: Vào ngày 21/02/2008, bà NĐ_Hảo tiếp tục cho bà BĐ_Linh vay thêm 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng, lãi 3% tháng, thời gian vay là 4 tháng, chỉ nói miệng và ghi thêm vào giấy nợ lần một.
11/2004/PT.HNGĐ Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 766
- 13
Nguyên đơn bà NĐ_Hoàng Kim Phụng trình bày: Tôi và anh BĐ_Hưng là hai vợ chồng, năm 2002 chúng tôi đã xin ly hôn và Tòa án nhân dân thành phố NT đã có quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 293/TTLH ngày 15/08/2003. Khi ly hôn chúng tôi chưa phân chia tài sản chung vợ chồng. Nguồn gốc căn nhà số 9, đường số X, PL, NT là do vợ chồng chúng tôi tạo lập trên phần đất của cha mẹ chồng là ông LQ_Hoạt – bà LQ_Thìn cho vào năm 1989, khi cho chỉ nói miệng không làm giấy tờ gì. Vợ chồng chúng tôi tự xây nhà trên đất và ở đó từ năm 1989 cho đến năm 2003. Nhà đất chưa được cấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở.
144/2013/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1149
- 32
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Phần đất ở và cây lâu năm diện tích 13.140m2 tọa lạc tại ấp Lê Bát, xã CC, huyện PQ do cụ Hoành (Quành) đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 11/12/1993, có nguồn gốc là do cụ Hoành và cụ Ba khai khẩn. Khi cụ Hoành còn sống, gia đình khó khăn nên cụ thế chấp giấy tờ đất cho bà Đỗ Ngọc Hương vay tiền cùng lãi suất tổng cộng là 40 triệu đồng. Năm 2000 sau khi cụ Hoành chết thì bà có họp gia đình thống nhất bán 1.000m2 đất trong tổng diện tích đất trên để trả nợ, lúc này bà BĐ_Hằng đứng trả nợ cho bà Hương và yêu cầu anh chị em trong gia đình giao giấy đất để cho bà BĐ_Hằng đổi từ giấy xanh sang giấy đỏ cho gia đình. Khi chị em thống nhất cho bà BĐ_Hằng làm chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà BĐ_Hằng tự ý cắt 4.000m2 đất cho bà LQ_Lê Thị Hoa, diện tích còn lại thì bà BĐ_Hằng tự ý chuyển sang tên của bà BĐ_Hằng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bìa đỏ ngày 31/3/2005 mà không được sự thống nhất của các anh chị em.
25/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1465
- 39
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Theo đơn khởi kiện ngày 06/7/2002 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Đỗ Thị Lan trình bày: Bà là công nhân xí nghiệp dịch vụ đời sống, Công ty Gang thép TN, năm 1991 gia đình bà được Công ty thanh lý cho 02 gian nhà ở cấp 4 của Xí nghiệp trên diện tích đất hơn 200m2 và sử dụng từ đó đến năm 2002. Do vợ chồng bà có mâu thuẫn nên bà có viết giấy ủy quyền cho chồng là ông Bùi Văn Cáp sử dụng trông coi và trong giấy không có ủy quyền bán nhà. Sau đó bà cùng hai con về bên bố mẹ đẻ bà ở. Lợi dụng lúc bà đi vắng ông Cáp đã lấy giấy tờ của bà tự ý bán 02 gian nhà thanh lý cho vợ chồng ông BĐ_Sính và bà Nguyện, sau đó ông Cáp bỏ về quê sinh sống và chết ngày 31/01/2003. Nay bà khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Sính và bà LQ_Vũ phải trả lại 02 gian nhà và không nhất trí trả số tiền mà ông Cáp đã nhận của vợ chồng ông BĐ_Sính, vì bà cho rằng ông Cáp nhận tiền thì phải tự chịu trách nhiệm.
08/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1989
- 38
Theo đơn khởi kiện ngày 08/7/2011 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Phạm Thị Hương và người đại diện của bà NĐ_Hương trình bày: Cha chồng của bà NĐ_Hương là ông Nguyễn Kỳ Huệ có tạo dựng được căn nhà bê tông cốt thép diện tích xây dựng là 148,8m2 và phần diện lích 921,4m2 tọa lạc tại số 3/58 Quốc lộ 1A thị trấn CL, huyện CL, tỉnh TG và một số vật dụng trong nhà từ trước năm 1975. Đến năm 1991, được Sở xây dựng tỉnh TG cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở. Đến năm 1999, ông Huệ chết để lại di chúc định đoạt toàn bộ phần tài sản cho ông Nguyễn Kỳ Hà (con ruột của ông Huệ), là chồng của bà NĐ_Hương trong đó căn nhà và phần đất nói trên, ông Hà chưa sang tên chuyển quyền thì đến năm 2008 ông Hà chết để lại di chúc, tháng 03/2011 bà NĐ_Hương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và đất.