20/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 428
- 14
Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, được bà NĐ_Nguyễn Thị Thông ủy quyền, anh LQ_Nguyễn Ân Tâm trình bày: diện tích 3.569m2 đất nông nghiệp thuộc thửa 199 và thửa 203 tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp 2, xã BC, huyện BC, thành phố HCM có nguồn gốc do cha mẹ của bà NĐ_Thông và ông BĐ_Nguyễn Thành Tồn là cụ Nguyễn Quốc Túy và cụ Hồ Thị Chọn để lại. Cụ Túy chết năm 1967. Cụ Chọn chết năm 1983. Sau khi cụ Chọn chết bà NĐ_Thông và bà Nguyễn Thị Thình (là em gái bà NĐ_Thông) tiếp tục sử dụng diện tích đất trên. Năm 1993 bà Thình xuất cảnh thì ông BĐ_Tồn tiếp tục sử dụng đất. Năm 1994 ông BĐ_Tồn đại diện cho hộ gia đình đăng ký kê khai và năm 1998 hộ ông BĐ_Tồn được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 11.921m2 (bao gồm cả thửa 199 diện tích 2.468m2 và thửa 203 diện tích 1.101m2). Bà NĐ_Thông yêu cầu ông BĐ_Tồn chia cho bà 1/2 diện tích đất thuộc hai thửa đất trên, vì đất cấp cho hộ ông BĐ_Tồn trong đó có bà là chủ hộ.
19/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1428
- 24
Tài sản chung của vợ chồng cụ Phan Danh và cụ Trần Thị Lựu gồm có một ngôi nhà cấp 4 diện tích 60m2 trên 3 sào 60 thước đất (theo chứng thư kiến điền cấp ngày 24/9/1963). Sau khi cụ Lựu chết, nhà đất do cụ Danh quản lý và sau khi cụ Danh chết, nhà đất của hai cụ do vợ chồng bà BĐ_Ngọn quản lý, sử dụng. Ngày 11/6/2004 bà NĐ_Phan Thị Tự và bà NĐ_Phan Thị A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ là căn nhà trên 1900m2đất (hai cụ có 2.200m2 đất khi còn sống đã cho bà BĐ_Ngọn 300m2) theo pháp luật và xin nhận bằng hiện vật. Ngày 16/8/2004 bà NĐ_Tự, bà NĐ_A nộp tạm ứng án phí.
19/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1371
- 15
Tài sản chung của vợ chồng cụ Phan Danh và cụ Trần Thị Lựu gồm có một ngôi nhà cấp 4 diện tích 60m2 trên 3 sào 60 thước đất (theo chứng thư kiến điền cấp ngày 24/9/1963). Sau khi cụ Lựu chết, nhà đất do cụ Danh quản lý và sau khi cụ Danh chết, nhà đất của hai cụ do vợ chồng bà BĐ_Ngọn quản lý, sử dụng. Ngày 11/6/2004 bà NĐ_Phan Thị Tự và bà NĐ_Phan Thị A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ là căn nhà trên 1900m2đất (hai cụ có 2.200m2 đất khi còn sống đã cho bà BĐ_Ngọn 300m2) theo pháp luật và xin nhận bằng hiện vật. Ngày 16/8/2004 bà NĐ_Tự, bà NĐ_A nộp tạm ứng án phí.
173/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 316
- 6
Nguồn gốc đất đang tranh chấp là của cụ LQ_Lạc Tuyên, khoảng năm 1983 - 1984 cụ LQ_Lạc Tuyên cho cụ Nguyễn Thị Ngà ở tạm 1 nền nhà, đến năm 1988 hai bên thỏa thuận (làm giấy tay) cụ LQ_Lạc Tuyên bán cho cụ Ngà giá 12 chỉ vàng (cụ LQ_Lạc Tuyên cho rằng bán cho bà Ngà diện tích 04m X 12m với giá 10 chỉ vàng 24kr). Ngày 30/3/1992, cụ Ngà được ủy ban nhân dân huyện CT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 350m2 (T), thửa 444, tờ bản đồ số 3. Năm 1993, ông BĐ_Lạc Ước (con cụ LQ_Lạc Tuyên) được Ủy ban nhân dân huyện CT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.600m2 gồm hai thửa: thửa 447 diện tích đất 800m2 (T) và thửa 448 diện tích 800m2 (CDK) tờ bản đồ số 3, tất cả các thửa trên (444, 447, 448) đều tọa lạc tại ấp Phú Mý Hiệp, thị trấn CTH huyện CT, tỉnh ĐT. Ngày 2/3/2002, cụ Nguyễn Thị Ngà chất, hiện tại trên diện tích đất tranh chấp (theo đo đạc thực tế của địa chính thị trấn là 455m2) có 2 căn nhà, nhà của cụ Ngà thì ông BĐ_Nguyễn Văn Chiến (con trai cụ Ngà) ở và căn nhà còn lại (phía sau) là bà BĐ_Nguyễn Thị Tuyết Kim (con gái cụ Ngà) ở.
160/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 240
- 5
Về tài sản chung: Hai bên khai không thống nhất. Phía chị Ngọc cho rằng vợ chồng tạo lập được căn nhà mái tole vách tường nền gạch trên mảnh đất thổ cư, một tủ quần áo, một tivi 14 inch, 14 thùng đựng hột vịt muối, một xe honda 67, số tiền mặt chị giữ 5.000.000 đồng cho chị Trương Bích Thủy mượn 3.000.000 đồng cho anh Trương Thanh Dân mượn 560.000 đồng. Khi đi chị có mang theo một tủ quần áo, một thùng đựng hột vịt muối và 5.000.000 đồng.