180/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 426
- 5
Chị Nguyễn Thị Thúy và anh Lê Hồng Thắng chung sống với nhau năm 1990 trên cơ sở tự nguyện được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục nhưng không đăng ký kết hôn. Từ năm 2000 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm, chị Thúy nghi ngờ anh Thắng có quan hệ ngoại tình, còn anh Thắng cho rằng chị Thúy không tu chí làm ăn và ham mê cờ bạc, hai người thường xuyên cãi vã nhau. Hai người xét thấy tình cảm không còn đề nghị được giải quyết ly hôn. Về con chung: Có 02 cháu là Lê Thị Thúy Lan, sinh ngày: 14/6/1991 và Lê Thị Linh, sinh ngày: 6/6/1995 chị Thúy xin nuôi cả hai con chung và đề nghị anh Thắng đóng góp phí tổn nuôi con. Anh Thắng đề nghị được nuôi 01 con. Nguyện vọng của hai cháu xin được ở với mẹ.
173/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 316
- 6
Nguồn gốc đất đang tranh chấp là của cụ LQ_Lạc Tuyên, khoảng năm 1983 - 1984 cụ LQ_Lạc Tuyên cho cụ Nguyễn Thị Ngà ở tạm 1 nền nhà, đến năm 1988 hai bên thỏa thuận (làm giấy tay) cụ LQ_Lạc Tuyên bán cho cụ Ngà giá 12 chỉ vàng (cụ LQ_Lạc Tuyên cho rằng bán cho bà Ngà diện tích 04m X 12m với giá 10 chỉ vàng 24kr). Ngày 30/3/1992, cụ Ngà được ủy ban nhân dân huyện CT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 350m2 (T), thửa 444, tờ bản đồ số 3. Năm 1993, ông BĐ_Lạc Ước (con cụ LQ_Lạc Tuyên) được Ủy ban nhân dân huyện CT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.600m2 gồm hai thửa: thửa 447 diện tích đất 800m2 (T) và thửa 448 diện tích 800m2 (CDK) tờ bản đồ số 3, tất cả các thửa trên (444, 447, 448) đều tọa lạc tại ấp Phú Mý Hiệp, thị trấn CTH huyện CT, tỉnh ĐT. Ngày 2/3/2002, cụ Nguyễn Thị Ngà chất, hiện tại trên diện tích đất tranh chấp (theo đo đạc thực tế của địa chính thị trấn là 455m2) có 2 căn nhà, nhà của cụ Ngà thì ông BĐ_Nguyễn Văn Chiến (con trai cụ Ngà) ở và căn nhà còn lại (phía sau) là bà BĐ_Nguyễn Thị Tuyết Kim (con gái cụ Ngà) ở.
156/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 279
- 7
Bà Lộc Thị Chi và anh NĐ_Vi Văn Oanh ủy quyền trình bày: nguồn gốc diện tích đất tranh chấp nằm lọt giữa khu đất tại rừng Khum Cang của gia đình bà đang sử dụng hơn 700m2 và do bố mẹ chồng bà sử dụng từ năm 1964 để trồng trám, mít, bạch đàn... Năm 1986 gia đình bà đã chặt một số cây làm nhà cửa, năm 1992 gia đình tiếp tục chặt cây không có ai tranh chấp. Năm 1994 gia đình bà được Ủy ban nhân dân huyện LB cấp sổ đỏ bìa xanh đối với khu rừng Khum Cang, diện tích 1,58 ha trong đó cả đất tranh chấp. Từ đó gia đình bà vẫn tiếp tục quản lý sử dụng đất trồng cây. Năm 2001, anh BĐ_Vi Văn Đoàn đến tranh chấp đất với lý do đó một gia đình anh BĐ_Đoàn có một nền nhà cũ trên đất khu rừng Khum Cang của gia đình bà. Nay con bà là NĐ_Vi Văn Oanh đứng tên trên sổ bìa xanh giai đình bà không nhất trí trả đất cho anh BĐ_Đoàn.
149/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 217
- 8
Theo đơn khởi kiện ngày 18/3/2005, nguyên đơn trình bày: tháng 1/1996 ông NĐ_Vũ Đình Lâm làm đơn xin cấp đất xây dựng nhà ở. Ngày 24/8/1996 được ủy ban nhân dân xã Hòa Khánh xác lập hồ sơ giao đất tại bản đồ số 5, thửa 291, diện tích 200m2 do ông Dương Thành Thị - Chủ tịch xã ký đóng dấu. Sau đó, ông NĐ_Lâm làm ngôi nhà cấp 4, trồng trụ rào bảo vệ bằng kẽm gai, đóng giếng khoan trên diện tích đất được cấp nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Năm 2000, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn An Nhật Tú đã đập phá hàng rào, giếng khoan để xây móng đá hộc và lấn chiếm phần đất của ông NĐ_Lâm khoảng 82m2.
16/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 557
- 7
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Trước đây, cụ Nguyễn Công có xây dựng một khu nghĩa địa tại thôn Bái Ân, xã NĐ, huyện TL, thành phố HN (nay là ngách 3 ngõ 191, tổ 9, phường NĐ, quận CG, thành phố HN). Khu nghĩa địa rộng 2185 m2 có cổng trước, cổng sau, tường rào bao quanh. Trong khu nghĩa địa có: 1 nhà để thờ cúng diện tích khoảng 27m2, 1 nhà văn bia khoảng 8m2 và 22 ngôi mộ. Cụ Nguyễn Công chết năm 1947 không để lại di chúc. Năm 1955, cụ Lý Thị Mùi (vợ thứ 3 của cụ Công) có thuê bà Nguyễn Thị Hội trông coi khu nhà thờ và nghĩa địa (không có hợp đồng bằng văn bản).