08/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2308
- 49
Tranh chấp di sản thừa kế và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Cha mẹ bà NĐ_Phúc là ông Nguyễn Đình Mẫng (chết năm 1943) và bà Lê Thị Hai (chết ngày 21/12/2010, theo giấy chứng tử số 20, Quyển số 01/2011 do UBND xã BC, huyện CĐ cấp ngày 02/3/2011). Ông Minh, bà Hai có 02 con chung là NĐ_Nguyễn Thị Phúc và BĐ_Nguyễn Thị Chi. Ngoài ra, ông bà không có con nuôi. Trong những năm trước khi bà Hai chết, bà NĐ_Phúc và bà BĐ_Chi luân phiên về Việt Nam để chăm sóc mẹ, nhưng về công sức và tiền chủ yếu do bà NĐ_Phúc bỏ ra. Bà Hai tạo lập được các tài sản sau: 01 căn nhà cấp 4 xây dựng trên diện tích 19.769m2 thuộc thửa 95, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất so BD 060665 và 4.232m2 thuộc thửa 82, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 060666. Cả hai giấy chứng nhận đều do UBND huyện CĐ cấp ngày 14/10/2010. Cả 2 thửa đất trên đều thuộc tờ bản đồ số 18 xã BC, huyện CĐ, tỉnh BR-VT.
61/BA/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 461
- 7
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Bà BĐ_Nguyễn Thị Thu Thanh và NĐ_Ngân hàng TMCP Việt Tâm có ký Hợp đồng tín dụng số 000100463/2010/HĐTDTL-NHNA ngày 04 tháng 11 năm 2010 và khế ước nhận nợ với số tiền vay là 1.600.000.000 đồng (Một tỷ sáu trăm triệu đồng), thời hạn vay là 60 tháng, hạn trả cuối cùng là ngày 05/11/2015, lãi suất cho vay được quy định theo từng khế ước nhận nợ cụ thể, mục đích vay: bổ sung vốn thanh toán tiền mua nhà. Tài sản thế chấp là căn nhà, đất tọa lạc tại số: 14 đường số A, khu phố 6, phường HBP, quận TĐ, thành phố HCM, do bà BĐ_Nguyễn Thị Thu Thanh làm chủ sở hữu theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AE 296316 do UBND quận TĐ cấp ngày 07/8/2006 theo Hợp đồng thế chấp số 000100463/2010/HĐTCBĐS-NHNA ngày 04 tháng 11 năm 2010 tại Phòng Công chứng Sài Gòn.
697/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1234
- 7
Trong đơn xin ly hôn ngày 22 tháng 4 năm 2013, biên bản hòa giải đoàn tụ không thành ngày 13/5/2013, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 26/6/2013 và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Quốc Qúy trình bày: Ông và bà BĐ_Trần Thị Diễm Trinh chung sống có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã TAH (huyện CC, thành phố HCM) cấp Chứng nhận kết hôn ngày 28/8/1996. Quá trình chung sống vợ chồng thường mâu thuẫn do bà BĐ_Trinh không tôn trọng ông và cha mẹ của ông. Bà BĐ_Trinh thường bỏ nhà để về cha mẹ đẻ ở. Ngày 17/12/2012, bà BĐ_Trinh đã về nhà cha mẹ đẻ và ở cho đến nay. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên ông khởi kiện yêu cầu được ly hôn.
790/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 417
- 8
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Năm 1999 bà NĐ_Nguyễn Lệ Thủy có mua căn nhà số 47 NTH, phường 8, quận PN, thành phố HCM với giá 100 lượng vàng SJC (9999), Do bà là Việt, kiều chưa được Nhà nước cho mua nhà tại Việt Nam vào thời Điểm đó, hơn nữa căn nhà nói trên lúc bà mua đang thuộc diện Nhà nước quản lý (chủ nhà cũ đang làm hồ sơ chuẩn bị được Nhà nước bán hóa giá), nên bà có nhờ vợ chồng người cháu là BĐ_Đỗ Hữu Nguy và BĐ_Lưu Hồng Hân là con của người bạn thân đứng ra thay mặt bà làm thủ tục pháp lý về việc mua bán sang nhượng căn nhà số 47 NTH giúp bà, vợ chồng ông BĐ_Nguy, bà BĐ_Hân đồng ý đề nghị của bà NĐ_Thủy và ngày 22/8/1999 cùng lúc bà NĐ_Thủy giao 100 lượng vàng SJC (9999) cho chủ bán xong, thì vợ chồng ông BĐ_Nguy, bà BĐ_Hân có ký tờ giấy nợ cho bà NĐ_Thủy với nội dung: “Chúng tôi là BĐ_Đỗ Hữu Nguy, BĐ_Lưu Hồng Hân có mượn của cô Tám (tức bà NĐ_Nguyễn Lệ Thủy) số vàng là 100 cây vàng SJC 9999 về việc thay mặt cô Tám sang và mua căn nhà số 47 NTH, phường 8, quận PN, thành phố HCM. Tất cả quyền định đoạt về căn nhà trên do cô Tám quyết định. Chúng tôi cam kết sẽ thực hiện theo những đề nghị mà cô Tám đã tin cậy giao phó giữ gìn”.
254/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1393
- 73
Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
Bà và ông BĐ_Nguyễn Duy Tha kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 13, Quận X. Bà và ông BĐ_Tha chung sống với nhau hạnh phúc đến cuối năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn và cả hai đã tự sống ly thân đến nay. Nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau. Mâu thuẫn vợ chồng kéo dài ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy, bà xin được ly hôn với ông BĐ_Tha để ổn định cuộc sống. Tại biên bản tự khai ngày 17/01/2012 của ông BĐ_Tha đối với yêu cầu ly hôn của bà NĐ_Hà, ông BĐ_Tha xác định ông vẫn còn thương vợ con nên ông không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, trong các biên bản hòa giải và làm việc sau đó, ông BĐ_Tha xác định trong quá trình chung sống giữa ông và bà NĐ_Hà có xảy ra mâu thuẫn đến nay tình cảm vợ chồng không thể đoàn tụ được nữa nên ông đồng ý ly hôn để trả tự do cho nhau.