cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

280/2015/DS-ST: Thay đổi việc nuôi con Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1854
  • 39

Thay đổi việc nuôi con

10-04-2015
TAND cấp huyện

NHẬN THẤY: Tại đơn khởi kiện ngày 23 tháng 5 năm 2013 và trình bày của nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Trọng: Ông và bà BĐ_Trần Thị Liễu Chung nguyên là vợ chồng, có một con chung Nguyễn Trung Trực sinh ngày 07/8/2009. Năm 2012 bà BĐ_Chung đã khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với ông, tại bản án số 359/2012/HN-PT ngày 17/4/2012 của Tòa án nhân dân Thành phố HCM đã quyết định giao con chung Nguyễn Trung Trực cho bà BĐ_Chung trực tiếp nuôi dưỡng.


278/2015/DS-ST: Ly hôn (Vợ yêu cầu) Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 479
  • 14

Ly hôn

01-04-2015
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 08/10/2013 và bản tự khai ngày 20/11/2013, bà NĐ_Dương Thị My Mai trình bày: Bà và ông BĐ_Huynh Chien Van (BĐ_Huỳnh Văn Chiến) tự nguyện kết hôn với nhau theo Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ số 2864, quyền số 15 ngày 29/10/2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn, bà và ông BĐ_Huynh Chien Van (BĐ_Huỳnh Văn Chiến) chung sống với nhau khoảng 05 tuần tại Việt Nam. Trong thời gian này, bà nhận thấy giữ bà và ông BĐ_Huynh Chien Van (BĐ_Huỳnh Văn Chiến) không hòa hợp với nhau về tính cách, quan điểm sống, cách ứng xử với những người xung quanh. Do ông BĐ_Huynh Chien Van (BĐ_Huỳnh Văn Chiến) có tính gia trưởng, ghen tuông nên cuộc sống giữa bà và ông BĐ_Huynh Chien Van (BĐ_Huỳnh Văn Chiến) trở nên nặng nề, tình cảm không hòa hợp. Từ tháng 5/2013 đến nay, bà và ông BĐ_Huynh Chien Van (BĐ_Huỳnh Văn Chiến) không còn liên lạc với nhau. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố HCM giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Huynh Chien Van (BĐ_Huỳnh Văn Chiến).


187/2015/DS-ST: Ly hôn (Vợ yêu cầu) Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 378
  • 26

Ly hôn

05-03-2015
TAND cấp tỉnh

Tại đơn khởi kiện ngày 25/9/2013 bản tự khai ngày 16/12/2013, bà NĐ_Lưu Mỹ Loan trình bày: Bà và ông BĐ_Wan Shou Ken quen biết và có đăng ký kên hôn theo số 423, quyển số 03 cấp ngày 29/01/1999 do Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp. Sau khi kết hôn bà qua Đài Loan sinh sống được 04 tháng. Tháng 5/2000, bà xin về thăm cha mẹ ở Việt Nam nhưng khi bà về Việt Nam thì ông BĐ_Wan Shou Ken cũng không quan tâm hỏi thăm bà. Bà nhận thấy cuộc sống chung không được hạnh phúc, bà không biết nhiều tiếng hoa phổ thông cũng không biết chữ Hoa nên ngôn ngữ bất đồng. Từ năm 2000 đến nay hai người không còn liên lạc với nhau. Nay tình cảm của bà với ông BĐ_Wan Shou Ken không còn nên bà yêu cầu xin ly hôn.


126/2015/DS-ST: Tranh chấp về quyền sở hữu nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1554
  • 32

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

05-02-2015
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 24/4/2012 và các biên bản tự khai, hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn là những người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông NĐ_Diêu Minh Mạnh do bà Tạ Thị Trinh đại diện trình bày: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án công nhận quyền sở hữu 03 căn nhà cùng một số 148 TĐX, phường NCT, Quận Y, Thành phố HCM thuộc quyền sở hữu của cha mẹ nguyên đơn là ông Diêu Văn Xái, bà Nguyễn Thị Liễu và yêu cầu bị đơn là BĐ_Nguyễn Thị Kim Ánh, bà BĐ_Nguyễn Thị Bạch Trà, ông BĐ_Phan Văn Lộc phải trả lại căn nhà trên cho các con ông Xái do bà Tạ Thị Trinh đại diện nhận với các căn cứ sau: Căn nhà 148 TĐX (trước đây là đường PD), phường NCT, Quận Y có nguồn gốc là do ông Diêu Văn Xái xây dựng trên trên phần đất mướn của ông Huỳnh Văn Đây, ông Xái cất nhà để cho mẹ vợ là bà Lý Thị Tám ở để thờ cúng, ông Xái cùng vợ con ở nơi khác, việc ông Xái cất nhà thể hiện trên giấy phép xây dựng số 175 ngày 22/2/1942 do Đô trưởng Sài Gòn ký. Bà Lý Thị Tám có 02 người con gồm


28/2015/DS-ST: Đòi lại tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 746
  • 16

Đòi lại tài sản

27-01-2015
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 07/5/2012 và tại Toà nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Ngân cùng Luật sư bảo vệ quyền lợi trình bày: Vào ngày 30/5/2011 Công ty TNHH một thành viên dịch vụ công ích TĐ có yêu cầu ông ký nhận số nợ 100.000.000 đồng và ông đã tiến hành trả xong vào cuối năm 2011, tuy nhiên thực tế ông không còn thiếu Công ty số nợ này. Ngoài ra vào năm 1993 ông có ký hợp đồng với Công ty công trình giao thông đô thị & quản lý nhà TĐ để thi công dự án đường XRTH tại huyện HTB, BT, tuy nhiên sau khi thực hiện xong thì có người mạo danh ông đã nhận từ Công ty số tiền 50.000.000 đồng, thực tế ông chưa nhận số tiền này. Vào năm 1997 ông có ký hợp đồng với Công ty công trình giao thông đô thị & quản lý nhà TĐ để thi công dự án tường rào, cổng nhà văn hóa huyện HTB, BT, tuy nhiên sau khi thực hiện xong thì Công ty chưa thanh tốn cho ông số tiền 160.000.000 đồng (về toàn bộ các tài liệu chứng từ về sự việc nêu trên là có, nhưng do đã quá lâu, nên bị thất lạc hết không còn và việc ông thực hiện thi công các công trình do Công ty công trình giao thông – đô thị và quản lý nhà TĐ ký với chủ đầu tư tại BT thì giữa ông và công ty chỉ thỏa thuận bằng miệng). Vì vậy ông làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc BĐ_Công ty TNHH một thành viên dịch vụ công ích TĐ (được chuyển đổi từ Công ty công trình giao thông – đô thị và quản lý nhà TĐ) phải trả lại cho ông số tiền nêu trên, tổng cộng là 310.000.000 đồng ngay sau khi Tòa giải quyết.