406/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2398
- 25
Theo đơn khởi kiện ngày 28-11-2003 và các lời khai tiếp theo anh NĐ_Thanh trình bày: nguồn gốc đất là của gia dinh anh khai hoang phục hóa ruộng của ông nội anh vào năm 1976 để canh tác. Đến năm 1979 gia đình anh đưa ruộng vào Tập đoàn, sau đó, nhà nước khoán lại cho bà Trương Thị Huê (em của ông nội) canh tác. Năm 1981 bà Huê lên nền đất cất nhà và trồng dừa, chuối, hoa màu. Năm 1986 chủ trương nhà nước trả lại cho chủ cũ, Năm 1990 bà Huê trả lại đất cho gia đình anh còn lại 1 liếp dừa anh đồng ý để lại cho bà Huê và con gái của bà Huê bị bệnh tâm thần ở (đã chết năm 2002). năm 2003 ông BĐ_Bá là bà con chú, bác ruột với anh và là người có đất giáp ranh với đất của gia đình anh đã thuê người xới mương ranh bỏ đất lấn sang ruộng và cả liếp dừa của anh để trồng rau lang diện tích khoảng 250m2.
406/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 905
- 16
Theo đơn khởi kiện ngày 28-11-2003 và các lời khai tiếp theo anh NĐ_Thanh trình bày: nguồn gốc đất là của gia dinh anh khai hoang phục hóa ruộng của ông nội anh vào năm 1976 để canh tác. Đến năm 1979 gia đình anh đưa ruộng vào Tập đoàn, sau đó, nhà nước khoán lại cho bà Trương Thị Huê (em của ông nội) canh tác. Năm 1981 bà Huê lên nền đất cất nhà và trồng dừa, chuối, hoa màu. Năm 1986 chủ trương nhà nước trả lại cho chủ cũ, Năm 1990 bà Huê trả lại đất cho gia đình anh còn lại 1 liếp dừa anh đồng ý để lại cho bà Huê và con gái của bà Huê bị bệnh tâm thần ở (đã chết năm 2002).
46/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4416
- 161
Theo ông NĐ_Quang trình bày thì: Năm 1984 gia đình ông được Ủy ban nhân dân xã Gia Thụy, huyện Gia Lâm cấp 150m2 đất (phía trước có ao và lối đi ra phía mương của xóm) để làm nhà. Năm 1985 ông đã cất nhà trên diện tích đất này và ở cho đến nay. Quá trình sinh sống, do có nhu cầu đi ra Quốc lộ 5 cho thuận tiện, ông và ông BĐ_Mã đề nghị chính quyền xã cho một số hộ dân sống tại đây sử dụng ao trước nhà ông để làm đường đi (rộng 1,5m) từ nhà ông qua nhà ông NĐ_Phương và nhà ông BĐ_Mã để ra Quốc lộ 5. Sau đó, gia đình ông đã đóng góp đổ cát lấp ao tạo ra lối đi nối với đường Quốc lộ 5 và sử dụng cho đến nay. Năm 1992 ông BĐ_Mã xây Kiốt (giáp Quốc lộ 5) đã lấn chiếm sang phần lối đi, gia đình ông có ý kiến nhưng ông BĐ_Mã trình bày hoàn cảnh, xây Ki ốt để nuôi con, nên lối đi chỉ còn lại 1m; ông BĐ_Mã đã hứa là lối đi này do 2 gia đình (gia đình ông BĐ_Mã và gia đình ông) cùng làm, cùng đi (ông BĐ_Mã đã giấy cam đoan theo nội dung này); do vậy, gia đình ông có quyền sử dụng lối đi.
45/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 396
- 6
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện đề ngày 02-4-2002 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Hà trình bày: Ông BĐ_Trần Văn Sâm là em ruột của bà; năm 1982 bà đưa ông BĐ_Sâm từ Miền Bắc vào ở cùng với bà, năm 1987 bà nhập hộ khẩu cho ông BĐ_Sâm vào cùng hộ khẩu của gia đình bà và xin việc làm cho ông BĐ_Sâm tại Công ty khoan cấp nước, thời điểm đó ông BĐ_Sâm chưa đủ tiêu chuẩn được cấp đất nên bà làm thủ tục xin một lô đất theo tiêu chuẩn gia đình liệt sỹ (ông Trần Văn Quế, em trai của bà là liệt sỹ) để làm nhà ở, nhưng để ông BĐ_Sâm đứng tên với ý định sau này bà sẽ đưa bố và ông Trần Văn Tám (em trai của bà) vào ở (vì bà đã có nhà ở riêng), do đó Sở xây dựng tỉnh ĐN đã cấp 250m2 đất đứng tên ông BĐ_Sâm; sau khi được cấp đất, bà bỏ tiền san ủi mặt bằng, đền bù tiền hoa màu, lấn thêm đất xung quanh nên diện tích đất hiện nay là 404m2; đồng thời bà bỏ tiền ra xây dựng căn nhà cấp 4 và cho ông BĐ_Sâm ở tại căn nhà này (vì trước đó ông BĐ_Sâm vẫn ở chung cùng với gia đình bà);
43/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 557
- 4
Tại đơn khởi kiện ngày 06-6-2003 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Lương Thị Linh trình bày: Năm 1969, bà LQ_Lương Thị Chi, bà BĐ_Lương Thị Mến và bà (là ba chị em ruột) đã hùn tiền mua chung căn nhà số 2215-5 cư xá Kiến Thiết, đường TMK, quận PN (nay là nhà số 176/8 đường ĐVN, phường X, quận PN, thành phố HCM) của ông Cao Văn Hơn với giá là 70.000 đồng (trong đó bà góp 7000 đồng), do bà LQ_Chi đứng tên tại giấy tờ mua nhà. Sau đó, ba chị em bà và cháu LQ_Lương Văn Để (con bà BĐ_Mến) đã chuyển vào nhà này ở và đến năm 1976 ông BĐ_Nguyễn Văn Xã (chồng bà BĐ_Mến) cũng chuyển về ở tại nhà này.