182/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 304
- 6
Tại Bản tự khai ngày 10/06/2005, 26/09/2005 và ngày 25/11/2005 và các Biên bản hòa giải ngày 29/09/2005, 26/10/2005 và ngày 15/11/2005 nguyên đơn bà Huỳnh Thị Anh Đào yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là trị giá nền đất thổ cư thuộc lô 1A3 đường HV có giá trị 600.600.000đ mà vợ chồng được nhận thuộc diện tái định cư theo quyết định số 207 ngày 25/08/2004 của Ủy Ban nhân dân Thành phố LX, về số tiền 61.648.000đ được hỗ trợ di dời hiện ông Tín giữ. Bà yêu cầu tài sản này phải chia đôi, bà xin nhận hiện vật. Bà xác định tiền đóng lô 1A3 cho Ủy ban nhân dân thành phố LX là 91.520.000đ. Về nợ chung: Bà xác định vợ chồng chỉ có nợ ông Long là 2.600.000đ còn các khoản nợ khác bà không thừa nhận.
72/2005/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 448
- 8
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 23/3/2001, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Túy, bà NĐ_Trần Thị Tứ và vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Miểu, bà BĐ_Nguyễn Thị Tiếp có lập giấy tay về việc vợ chồng ông BĐ_Miểu, bà BĐ_Tiếp chuyển nhượng cho vợ chồng ông NĐ_Túy, bà NĐ_Tứ diện tích đất 1.000 m2 với giá 14.000.000đ. Đây là một phần trong tổng số diện tích đất 2.346 m2 thuộc thửa 588, tờ bản đồ 22 xã SN, đã được UBND huyện CT (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Nguyễn Miểu. Diện tích đất chuyển nhượng có tứ cận: Bắc giáp đường 11 rộng 20m, Nam giáp đất ông Tiến rộng 20m, Đông giáp đất ông Nguyễn Văn Thanh, Tây giáp đất còn lại của ông BĐ_Miểu. “Giấy sang nhượng”, do 2 bên lập ngày 23/3/2001 nêu trên đã được UBND xã SN xác nhận ngày 27/3/2001. Thế nhưng, cho đến nay hai bên vẫn chưa làm thủ tục sang tên vợ chồng ông NĐ_Túy.
157/2009/HNST Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1750
- 29
Đất tại số 08 HMT có nguồn gốc của Công ty xây dựng dầu khí cấp 135,15m2 cho vợ chồng bà LQ_Chu Thị Khiêm, khi đó đất mang số 1A D4 Nguyễn An Ninh, sau đó bà LQ_Khiêm đã sang nhượng lại một phần cho ông Nguyễn Thắng Dương, có lập hợp đồng chuyển nhượng theo quy định pháp luật và sang nhượng lại cho bà LQ_Trần Thị Thi diện tích 40m2. Tháng 11/1991, bé mẹ các ông bà lại sang nhựợng lại của bà LQ_Trần Thị Thi và xây căn nhà cấp 4 để ở. Việc sang nhượng đất không làm giấy tờ, nhưng bên mua đã sử dụng ổn định, không tranh chấp với ai.
2475/2009/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 522
- 6
Tại đơn khởi kiện ngày 12/3/2009, biên bản ghi lời khai và biên bản hòa giải nguyên đơn bà NĐ_Phạm Thị Duyên trình bày: Bà và ông BĐ_Tăng Trí Hòa là vợ chồng hợp pháp và có 01 con chung là trẻ Tăng Thành Đạt, sinh ngày 12/01/2001. Tại bản án phúc thẩm số 17/2008/DS-PT ngày 04/01/2008 của Tòa án nhân dân TP. HCM đã giao cho bà NĐ_Duyên được quyền trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Đạt. Ghi nhận sự tự nguyện của bà NĐ_Duyên không yêu cầu ông BĐ_Hòa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Nay bà NĐ_Duyên yêu cầu ông BĐ_Hòa có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trẻ Đạt mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi Đạt đủ 18 tuổi.
107/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 929
- 13
Nguyên đơn, ông NĐ_Nguyễn John xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Ông là người gốc Việt có quốc tịch Hoa kỳ về Việt Nam sinh sống từ năm 2000. Từ khi về Việt Nam ông có quen biết với bà BĐ_Phạm Thị Kim Phượng và đã đưa cho bà BĐ_Phượng giữ một số tài sản, gồm: 275 lượng vàng SJC và 24.500USD. Số tài sản trên được đưa nhiều lần và không làm giấy tờ biên nhận. Mục đích ông đưa tiền, vàng là để bà BĐ_Phượng mua đất giùm ông, do ông là Việt Kiêu nên không được phép đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, bà BĐ_Phượng không mua đất nên hai bên có thỏa thuận như sau: bà BĐ_Phượng sẽ trả số tiền, vàng nêu trên cho ông vào ngày 15/8/2002. Đúng hẹn, bà BĐ_Phượng không thực hiện thỏa thuận. Khoảng tháng 10/2002, bà BĐ_Phượng có trả cho ông 31 lượng vàng SJC và 24.500USD, hai bên không làm giấy tờ biên nhận.