cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

18/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1002
  • 35

Yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu

26-09-2013
TAND cấp tỉnh

Quá trình chung sống, ông Xứng và bà Tứ có tạo lập được tài sản chung là một ngôi nhà và đất tại tổ 11, phường PM, quận ST, TP ĐN. Hiện nay, đã có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở được Nhà nước cấp ngày 15/10/2001, đứng tên ông Lê Văn Xứng (chết) và bà Ngô Thị Tứ. Nguồn gốc nhà, đất là do ông Lê Văn Xứng và bà Ngô Thị Tứ khai hoang, ở từ năm nào ông không xác định được. Tuy nhiên, sau khi ông Xứng chết, bà Tứ ở và quản lý ngôi nhà này. Thời gian xây dựng ngôi nhà, ông không nhớ cụ thể, nhưng trong quá trình bà Tứ ở, bà LQ_Lê Thị Phương ở Mỹ về Việt Nam và đứng ra xây lại nhà có cấu trúc là nhà đúc, có gác lửng. Thời gian này, bà Tứ có nuôi người cháu ngoại tên là BĐ_Nguyễn Thị Kim Trúc (con của bà Lê Thị Phẩm).


07/2007/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1364
  • 22

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

14-11-2007
TAND cấp tỉnh

Theo lời khai của các đương sự tại cấp sơ thẩm thì lúc sinh thời, Ông Du và bà BĐ_Sinh có các tài sản chung gồm: Căn nhà cấp 4A5 diện tích 78,96m2, nhà tạm 72,96m2 nằm trên thửa đất số 60, tờ bản đồ số 40, diện tích 20.939m2 trỏng đó co 300m2 đất thổ cư, Thửa đất số 101, tờ bản đồ số 40, diện tích 9.051m2 cùng tòạ lạc tại Ấp Trảng Lớn, HD, TT, tỉnh BR-VT. Đất đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất năm 1995 đứng tên ông Trần Văn Du. Năm 2001 bà BĐ_Sinh làm thủ tục sang tên toàn bộ diện tích đất trên từ ông Du sang tên bà BĐ_Sinh. Năm 2004 đã làm thủ tục chuyển QSD thửa số 101 sang tên ông LQ_Trần Hữu Đinh.


31/2007/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 705
  • 10

Tranh chấp thừa kế

14-09-2007
TAND cấp tỉnh

Sau khi ông Thuận chết, năm 1987 bà nguyễn Thị Kề là vợ của ông Thuận muốn bán 03 căn nhà số 02 PĐ, NT, nên bà LQ_Tiênận đã gởi đơn đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh KH yêu cầu giải quyết. Tại biên bản làm việc ngày 22/12/1987, tại Viện Kiểm Sát tỉnh KH, Cha tôi là ông Vương phước Trung vẫn khẳng định ông Duyên có để lại hai tờ di chúc cho ông toàn bộ tài sản: Nhà, đất tại 02A LHP, PH, NT và 02 trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT. Tại Viện kiểm sát tỉnh KH, ông Trung tự nguyện giao toàn bộ tài sản là nhà và đất tại 02 PĐ, NT cho bà Nguyễn Thị Kề (vợ ông Thuận) cùng các con ông Thuận, kèm theo biên bản thỏa thuận tại Viện kiểm sát Cha tôi đã giao cho bà Kề cả hai bản di chúc của ông Vương Phước Duyên để lại nhà và đất số 02 PĐ NT cho cha tôi nên bà Kề và các con bà Kề mới bán được 03 căn nhà trên


31/2007/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 686
  • 20

Tranh chấp thừa kế theo di chúc và yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

14-09-2007

Sau khi ông Thuận chết, năm 1987 bà nguyễn Thị Kề là vợ của ông Thuận muốn bán 03 căn nhà số 02 PĐ, NT, nên bà LQ_Tiênận đã gởi đơn đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh KH yêu cầu giải quyết. Tại biên bản làm việc ngày 22/12/1987, tại Viện Kiểm Sát tỉnh KH, Cha tôi là ông Vương phước Trung vẫn khẳng định ông Duyên có để lại hai tờ di chúc cho ông toàn bộ tài sản: Nhà, đất tại 02A LHP, PH, NT và 02 trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT. Tại Viện kiểm sát tỉnh KH, ông Trung tự nguyện giao toàn bộ tài sản là nhà và đất tại 02 PĐ, NT cho bà Nguyễn Thị Kề (vợ ông Thuận) cùng các con ông Thuận, kèm theo biên bản thỏa thuận tại Viện kiểm sát Cha tôi đã giao cho bà Kề cả hai bản di chúc của ông Vương Phước Duyên để lại nhà và đất số 02 PĐ NT cho cha tôi nên bà Kề và các con bà Kề mới bán được 03 căn nhà trên.


1587/2007/HNST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 520
  • 10

Tranh chấp về xác định mẹ và quyền nhận mẹ

31-08-2007
TAND cấp tỉnh

Trong đơn khởi kiện ngày 28/2/2007, lời khai tại các bản tự khai và tại phiên toà sơ thẩm bà Võ Thị Mỹ trình bày: Bà là con ruột của bà Nguyễn Thị Hinh, sinh ngày 11/10/1915 (chết năm 1989). Năm 1950 bà Hinh sinh bà, do là con ngoại hôn, mẹ bà muốn có chồng nên nhờ bà Võ Thị Huê đứng tên là mẹ trong giấy khai sinh của bà. Mẹ bà nuôi bà từ khi sinh ra cho đến khi bà lấy chồng. Lúc bà lên 3- 4 tuổi, mẹ bà lây ông Lê Công Mão. ông Mão và mẹ bà không có con chung ( ông Mão chết năm 1984). Mẹ bà còn có một người con tên là Lê Văn Quý, sinh năm 1942, không rõ tên cha. Ông Quý chết do tai nạn giao thông năm 1969, không có vợ, con. Ngoài ra, mẹ bà còn nhận nuôi một người cháu tên là Nguyễn Thị Kim Chi, sinh năm 1958, con của cậu ruột là ông Nguyễn Văn Khôi và vợ là bà Nguyễn Thị Nguyên.