19/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1371
- 15
Tài sản chung của vợ chồng cụ Phan Danh và cụ Trần Thị Lựu gồm có một ngôi nhà cấp 4 diện tích 60m2 trên 3 sào 60 thước đất (theo chứng thư kiến điền cấp ngày 24/9/1963). Sau khi cụ Lựu chết, nhà đất do cụ Danh quản lý và sau khi cụ Danh chết, nhà đất của hai cụ do vợ chồng bà BĐ_Ngọn quản lý, sử dụng. Ngày 11/6/2004 bà NĐ_Phan Thị Tự và bà NĐ_Phan Thị A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ là căn nhà trên 1900m2đất (hai cụ có 2.200m2 đất khi còn sống đã cho bà BĐ_Ngọn 300m2) theo pháp luật và xin nhận bằng hiện vật. Ngày 16/8/2004 bà NĐ_Tự, bà NĐ_A nộp tạm ứng án phí.
153/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1993
- 52
Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Theo ông NĐ_Toản trình bày: nguồn gốc đất của cha mẹ ông là Đỗ Văn Phiện và Nguyễn Thị Nhiễm cho ông vào năm 1994, nhưng trước đó cha mẹ ông có đồng ý cho một số hộ vào cất nhà ở nhờ một phần diện tích đất trong đó có hộ của ông BĐ_Lê Văn Hưu. Năm 1995 ông BĐ_Hưu đã viết cam kết ở nhờ nhà ông NĐ_Toản với điều kiện không được nới rộng thêm, không được tùy tiện sang nhượng cho người khác đến ở mà không thông qua ông NĐ_Toản. Năm 1995 ông NĐ_Toản trồng cây, đào ao trên phần đất còn lại của thửa đất. Năm 2000 gia đình ông NĐ_Toản đã kê khai và được ủy ban nhân dân huyện HN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tổng diện tích là 2.971m2 , trong đó có thửa 238 là thửa các hộ đang ở nhờ. Đến năm 2003 gia đình ông Cường sửa chữa lại nhà đã lấn vào phạm vi đất của ông NĐ_Toản. Nay ông NĐ_Toản yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Hưu di dời nhà để trả lại diện tích 4,6m X 11,5m = 52 9m2 đất
17/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1741
- 30
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Cuối năm 1979, bà đã giao dịch với bà Đặng Thị Nga để mua nhà 72 phố Lò Đúc, nhưng do bà không đủ tiền mua toàn bộ tầng 1, nên đã rủ bà LQ_Vũ Thị Luyến là mẹ chị BĐ_Lê Thị Sóng mua chung, giá nhà là 7.500đ, mỗi bên 1/2 là 3.750đ và 1/2 tiền thuế là 750đ, bà đã đưa số tiền đó cho bà Nga tại 31 phố BT. Sau đó bà đã đi làm thủ tục sang tên trước bạ và chuyển đồ đạc đến ở 72 phố Lò Đúc vào ngày 26/5/1980; tháng 8/1980 khi bà đi vắng, chị BĐ_Sóng đã phá khoá cửa nhà bỏ đồ của bà ra ngoài.
137/2006/PS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 878
- 19
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 4/9/1989, vợ chồng ông BĐ_Thuần tổ chức họp gia đình có mặt các người con và lập “biên bản cha mẹ giao đất và tài cho các con”, ông BĐ_Thuần, bà Soi phân chia đất cho các con trong đó cho anh Nguyễn VH 57.6m2 (1 miếng 6) và bán cho anh NĐ_Tuấn 2 sào đất giá 3,5 chỉ vàng một sào với yêu cầu trả ngay trong năm 1/3, số còn lại 2/3 trả năm 1990. Ngôi nhà trị giá 6 tạ thóc yêu cầu trả ngay 3 tạ, còn 3 tạ cho anh NĐ_Tuấn với điều kiện để cha mẹ ở đến khi qua đời thì anh NĐ_Tuấn mới được sử dụng nhà. Biên bản có xác nhận của Chủ tịch ủy ban nhân dân xã VH ngày 20/9/1989 (BL97).
13/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 631
- 6
Tranh chấp hợp đồng khai thác gỗ
Đại diện NĐ_Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Lâm trình bày: Ngày 7/11/1993 giữa đại diện LQ_Công ty Kagaga (Campuchia) có ông Men Sok Chey-Tổng giám đốc, ông Xuân Liên - Giám đốc công trình đã ký “Hợp đồng khai thác gỗ tròn” (gom bãi và vận xuất) số 042-93/KG với đại diện NĐ_Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Lâm có ông Nguyễn Văn Thu-Phó tổng giám đốc, ông Hồ Tấn Quyên - Giám đốc kế hoạch.