cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

16/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 557
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

05-07-2006

Trước đây, cụ Nguyễn Công có xây dựng một khu nghĩa địa tại thôn Bái Ân, xã NĐ, huyện TL, thành phố HN (nay là ngách 3 ngõ 191, tổ 9, phường NĐ, quận CG, thành phố HN). Khu nghĩa địa rộng 2185 m2 có cổng trước, cổng sau, tường rào bao quanh. Trong khu nghĩa địa có: 1 nhà để thờ cúng diện tích khoảng 27m2, 1 nhà văn bia khoảng 8m2 và 22 ngôi mộ. Cụ Nguyễn Công chết năm 1947 không để lại di chúc. Năm 1955, cụ Lý Thị Mùi (vợ thứ 3 của cụ Công) có thuê bà Nguyễn Thị Hội trông coi khu nhà thờ và nghĩa địa (không có hợp đồng bằng văn bản).


129/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 430
  • 6

Ly hôn

19-06-2006

Chị Trần Thị Tuyết Mai và anh Nguyễn Mạnh Toàn chung sống với nhau từ tháng 10/1997, không có đăng ký kết hôn, gia đình tổ chức lễ cưới. Sau khi cưới hai người chung sống hòa thuận đến tháng 1/2003 phát sinh mâu thuẫn do anh Toàn nghi ngờ chị Mai có quan hệ không lành mạnh, không có trách nhiệm với gia đình. Chị Mai cho rằng anh Toàn đã đánh chị nên chị đã về ở bên nhà bố mẹ đẻ và sau đó thuê nhà ở riêng từ tháng 1/2003. Nay chị Mai xét thấy tình cảm vợ chồng không còn xin được giải quyết ly hôn. Anh Toàn cũng đồng ý giải quyết ly hôn vì tình cảm giữa hai người không còn khả năng cải thiện để sống chung.


15/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 791
  • 10

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

06-06-2006

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/8/2001, và trong quá trình giải quyết vụ án, bà NĐ_Ngô Thị Hạnh trình bày: Bà và ông Hàng Việt (chết ngày 23/11/1995) là vợ chồng chung sống từ năm 1950, có hai con chung là LQ_Trần Thanh Hoành, LQ_Hàng Lưu Sáng và một con nuôi là LQ_Hàng Huệ Lan; hai con Thanh Hoàng và Lưu Kim hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Năm 1950 bà và ông Hàng Việt thuê căn nhà số 112 Nhân Vị, sau đổi thành Trần Hùng Quân (nay là số 240 NCT, phường X, quận M, thành phố HCM) của ông Trương Văn Bền để ở. Sau giải phóng vì căn nhà trên thuộc diện nhà do nhà nước quản lý nên thay vì ký hợp đồng với chủ nhà, vợ chồng bà tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với đội quản lý nhà thuộc ban xây dựng nhà đất quận M (hợp đồng thuê nhà số 325 ngày 05/11/1982 do chồng bà tên là Hàng Việt đứng tên thuê). Đến năm 1985, vợ chồng bà tiến hành thủ tục mua đứt căn nhà trên nhân đợt Nhà nước hoá giá nhà.


13/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 631
  • 6

Tranh chấp hợp đồng khai thác gỗ

05-06-2006

Đại diện NĐ_Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Lâm trình bày: Ngày 7/11/1993 giữa đại diện LQ_Công ty Kagaga (Campuchia) có ông Men Sok Chey-Tổng giám đốc, ông Xuân Liên - Giám đốc công trình đã ký “Hợp đồng khai thác gỗ tròn” (gom bãi và vận xuất) số 042-93/KG với đại diện NĐ_Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Lâm có ông Nguyễn Văn Thu-Phó tổng giám đốc, ông Hồ Tấn Quyên - Giám đốc kế hoạch.


12/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1862
  • 17

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

05-06-2006

Căn nhà lợp ngói có diện tích 80m2 (dài 20m ngang 4m) là của vợ chồng ông (NĐ_Tăng Thành Tú) và bà Nguyễn Thị Diệp. (Theo tờ bán đứt căn nhà đề ngày 16/8/1974 thì bà Diệp là người đứng tên mua nhà của vợ chồng bà Huỳnh Thị Ba và ông Lữ Thăng). Sau khi mua vợ chồng ông cho con gái là Tăng Thị Nâu ở và quản lý sử dụng. Năm 1976 vợ chồng ông cho Hợp tác xã PM mượn, năm 1977 Hợp tác xã trả nhà và ông bà giao cho chị Nâu tiếp tục sử dụng. Từ năm 1982 vợ chồng anh BĐ_Lộc về ở cùng chị Nâu, đến năm 1985 chị Nâu đi ở nơi khác thì vợ chồng anh BĐ_Lộc ở và quản lý sử dụng căn nhà này.