81/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 282
- 6
Vợ chồng bà Tạ Thị Tiễn, sinh năm 1907 và ông Võ Văn Chẩn, sinh năm 1907, sinh được 03 người con chung, như sau: Ông Võ Văn Niên, chết khi còn nhỏ; bà NĐ_Võ Thị Thượng, sinh năm 1931; bà Võ Thị Thành, chết năm 1992; Lúc sinh thời, ông Chẩn và bà Tiễn có 01 căn nhà số 36/38 NAN (số cũ 284/36 LL), P7, TP VT, tọa lạc trên diện tích đất 2.454 m2. Khoảng năm 1975, ông Chẩn chết không để lại di chúc. Bà Tiễn tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất trên và đến ngày 17/9/2002, bà Tiễn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 2.454m2 thuộc thửa số 847, tờ bản đồ số 01, Phường X, TP VT.
16/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 306
- 1
Theo nguyên đơn Sơn Thái Hoàng trình bày: Ông và bà Kim Thị Ánh xây dựng gia đình vào năm 1982 hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LH, huyện CT, tỉnh TV, tại quyển số 1, số đăng ký 116. Quá trình chung sống có 03 người con chung: 1/ Sơn Kim Ngân, sinh năm: 1982; 2/ Sơn Thái Quí, sinh năm: 1985; 3/ Sơn Thái Hòa, sinh năm: 1988. Quá trình vợ chồng sống chung hạnh phúc đến năm 1989 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không phù hợp, thường cải vã qua lại trong cuộc sống dẫn đến ly thân, nguyện vọng ông xin được ly hôn với bà Ánh. Trường hợp ly hôn về con chung ông xin được cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên, về tài sản và nợ chung không có nên không yêu cầu.
16/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 495
- 4
Theo nguyên đơn Sơn Thái Hoàng trình bày: Ông và bà Kim Thị Ánh xây dựng gia đình vào năm 1982 hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LH, huyện CT, tỉnh TV, tại quyển số 1, số đăng ký 116. Quá trình chung sống có 03 người con chung: 1/ Sơn Kim Ngân, sinh năm: 1982; 2/ Sơn Thái Quí, sinh năm: 1985; 3/ Sơn Thái Hòa, sinh năm: 1988. Quá trình vợ chồng sống chung hạnh phúc đến năm 1989 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không phù hợp, thường cải vã qua lại trong cuộc sống dẫn đến ly thân, nguyện vọng ông xin được ly hôn với bà Ánh. Trường hợp ly hôn về con chung ông xin được cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên, về tài sản và nợ chung không có nên không yêu cầu.
71/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 579
- 7
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tháng 5/2003, bà NĐ_Tứ và vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Hứa, bà BĐ_Huỳnh Thị Niêu có thỏa thuận với nhau về việc vợ chồng ông BĐ_Hứa chuyển nhượng cho bà NĐ_Tứ diện tích đất có chiều ngang 16m, chiều dài 30m, giá 15.000.000đ. Diện tích đất này có tứ cận: Phía Đông giáp đất ông Thiệt, Tây giáp đường đất, Nam giáp đất ông BĐ_Hứa, Bắc giáp đất ông Phan Thành Vũ. Khi thỏa thuận, bà NĐ_Tứ biết đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Hứa. Khi chuyển nhượng, đất này đang trồng hoa Huệ nhưng bà NĐ_Tứ nhận chuyển nhượng với mục đích để ở.
19/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 410
- 5
Theo bà Lê Thị Dững cho biết: Bà Dững và ông Tẩn kết hôn vào năm 1987, không có đăng ký kết hôn và không có con chung. Tài sản chung tạo lập được gồm 01 căn nhà ngói tọa lạc tại ấp 3, xã VL, huyện AP, tỉnh AG, 01 chiếc ghe trọng tải 140 tấn, 1,5 ha đất nông nghiệp, 01 nền nhà giá 10.000.000đ, 01 căn nhà bằng gỗ 30.000.000đ. Tài sản riêng gồm có: 12 chỉ vàng 24K, 300 giạ lúa. Vào năm 2001 con riêng của ông Tẩn về chung sống trong nhà đã xảy ra nhiều việc bất đồng cãi vã nhau trong gia đình đồng thời cũng phát hiện được ông Tẩn chưa ly hôn dứt khoát với người vợ cũ tên là Năm. Do đó bà yêu cầu Tòa án hủy hôn nhân trái pháp luật giữa bà và ông Tẩn. Về phần tài sản xin được chia theo pháp luật.