cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

102/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 386
  • 12

Tranh chấp quyền sử dụng đất

19-05-2006

Ngày 19/12/2001, bà NĐ_Nguyễn Thị Thạch khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Nguyễn Thị Tiên tháo dỡ chuồng bò để trả đất. Theo bà NĐ_Thạch trình bày: Vào khoảng tháng 3 năm 2000 bà BĐ_Tiên có đơn yêu cầu ủy Ban Nhân Dân xã giải quyết bà NĐ_Thạch lấn chiếm đất của bà BĐ_Tiên, ngày 12/06/2001 tại ủy ban nhân dân xã hai bên cam kết nhờ đoàn đo đạc xác định ranh giới đất, nếu bên nào lấn chiếm thì phải tự tháo dở và chịu phí tổn đo đạc, chuồng bò của bà BĐ_Tiên nằm trên đất của bà NĐ_Thạch nhưng bà BĐ_Tiên không chịu thực hiện cam kết nên bà NĐ_Thạch khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Tiên tháo dỡ chuồng bò để trả đất.


10/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 821
  • 11

Đòi lại nhà cho ở thuê

11-05-2006

Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay.


10/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 441
  • 4

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

11-05-2006

Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay. Tuy nhà đất thuộc sở hữu chung của cụ Kiềm và các nguyên đơn, nhưng do cụ Kiềm hoàn cảnh khó khăn nên các nguyên đơn để cho cụ Kiềm thu tiền thuê nhà sử dụng chi tiêu hàng tháng.


10/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 901
  • 5

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và đòi lại nhà cho thuê

11-05-2006

Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay. Tuy nhà đất thuộc sở hữu chung của cụ Kiềm và các nguyên đơn, nhưng do cụ Kiềm hoàn cảnh khó khăn nên các nguyên đơn để cho cụ Kiềm thu tiền thuê nhà sử dụng chi tiêu hàng tháng.


94/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 661
  • 5

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

24-04-2006

Bà BĐ_Hoa thừa nhận có vay của bà NĐ_Roi tổng số 29.000.000 đồng nhưng số tiền được vay làm nhiều lần từ năm 2001. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bà đã đóng lãi cho bà NĐ_Roi tổng số tiền là 69.755.000 đồng. Nay bà BĐ_Hoa yêu cầu xem xét lại phần lãi đã đóng để trừ vào phần nợ vốn.