411/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 922
- 4
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Năm 1965 ông kết hôn với bà Phạm Thị Hường. Vợ chồng sinh được 4 con là: Sơn, Hiền, Thủy, Sâm. Cả gia đình sinh sống tại nhà đất của bố mẹ ông để lại tại Thôn 6, xã QP. Năm 1984 bà Hường chết, năm 1987 ông kết hôn với bà LQ_Nguyễn Thị Nga ở cùng thôn và về nhà bà LQ_Nga sống. Năm 1991 ông được UBND huyện QT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 trong đó 200m2 đất ở, 300m2 đất vườn thuộc thửa 886 tờ bản đồ 03 xã QP. Nhà đất trên do anh BĐ_Nguyễn Ngọc Sinh, BĐ_Nguyễn Xuân Thanh sử dụng. Khoảng tháng 3/2001, anh BĐ_Sinh nói với ông cho anh BĐ_Sinh mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giấy ủy quyền để anh BĐ_Sinh thế chấp vay tiền ngân hàng chữa bệnh cho vợ. Do không đọc nên ông đã ký, nhưng sau đó ông mới biết là anh BĐ_Sinh lừa ông để ký vào giấy chứng nhận cho con đất và anh BĐ_Sinh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Ông đã có đơn đề nghị và năm 2009 UBND huyện QT đã ra quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh BĐ_Sinh và phục hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Sinh, anh Thủy phải trả lại nhà đất trên cho ông.
393/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 317
- 5
Nguyên đơn cụ NĐ_Nguyễn Thị Minh, cụ NĐ_Nguyễn Thị Linh do ông Huỳnh Long Gươm đại diện trình bày: Phần đất có diện tích khoảng 8.483m2 thuộc thửa 171, 172, 181, 182, 19’,192, 201, 202, 26, 27 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại ấp 4, xã VL B, huyện BC, thành phố HCM có nguồn gốc của gia tộc để lại cho cố Nguyễn Văn Băng (chú ruột cụ NĐ_Minh và cụ Luớc). Năm 1992 do tuổi già sức yếu nên cố Nguyễn Văn Băng lập tờ hợp chung bổn tộc tương phân và ủy quyền cụ thể như sau: - Cố Nguyễn Văn Băng được chia 3.000m2 đất thuộc thửa 171 với diện tích 1.386m2 và một phần thửa 182 với diện tích 1.695m2 (1.386 + 1.695 = 3.081m2) cố Băng đã sử dụng và bán cho người khác. - Ông Nguyễn Văn Sang (chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Nhân) được chia một phần thửa 201 với diện tích 188m2 (trong diện tích 242m2), một phần thửa 171 với diện tích 214m2 và một phần thửa 181 với diện tích 1.300m2. Tổng cộng 1.702m2 và ông Sang đã bán phần đất của gia tộc đã chia cho ông.
381/2014/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở thuê Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 794
- 6
Căn nhà số 51/20 AC, phường 19 (nay là 30/39/2 đường 100 BT, phường 14, quận T, thành phố HCM) do bà Trương Thị Sơ mua từ năm 1950. Đến năm 1956 bà cho ông Trần Nhĩ và bà Hà Tu thuê, không lập hợp đồng. Sau khi ông Nhĩ, bà Tu chết, con bà là Hà Lê tiếp tục ở và trả tiền thuê nhà mỗi tháng 1.200 đồng, đến năm 1975 không trả tiền thuê nhà nữa. Năm 1983, bà Sơ ủy quyền cho bà NĐ_Nguyễn Thị Minh khởi kiện ông Hà Lê đòi lại nhà. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 18/2008/DSST ngày 14/9/1983 của Tòa án nhân dân quận T đã xử buộc ông Hà Lê phải trả lại nhà cho bà Trương Thị Sơ trong hạn 12 tháng.
359/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 308
- 3
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cụ NĐ_Bùi Thị Hoa khởi kiện đòi anh BĐ_Trần Văn Minh phải trả lại diện tích 120m2 đất trước năm 2001 là ao tại thửa số 237, tờ bản đồ số 29, loại đất lâu năm quả, bản đồ năm 2007 (bản đồ năm 2001 thể hiện tại thửa 51, tờ số 24) mang tên anh BĐ_Trần Văn Minh của xã ĐH, huyện KĐ, tỉnh HY. Quan điểm của cụ NĐ_Hoa xác định khoảng năm 1970 do sông lở không còn đất nên cụ đã sang thôn 6, xã ĐH mua lại đất của cụ Nguyễn Thị Khoản (cụ Khoản chuyển đi Tây Bắc nay đã chết), trong đó có cả phần đất (trước kia là ao) đang tranh chấp. Cụ NĐ_Hoa sử dụng đất và phần ao mua lại của cụ Khoản đến năm 2001, gia đình anh BĐ_Trần Văn Minh đổ đất san lấp lấn chiếm 2/3 ao với diện tích 120m2 xây tường bao giáp ngõ đi vào nhà. Cụ NĐ_Hoa đã đề nghị với cơ sở thôn để hòa giải yêu cầu anh BĐ_Minh không được đổ đất, nhưng anh Manh vẫn cố tình lấn chiếm.
194/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 414
- 7
Tại đơn khởi kiện ngày 28/7/2008 nguyên đơn là bà NĐ_Hoàng Thị Linh trình bày: Bà và ông BĐ_Hoàng Văn Bình là ông em ruột. Do hoàn cảnh gia đình bà rất khó khăn, cha là liệt sỹ, nên năm 1988 bà đi lao động tại Liên Xô cũ. Quá trình lao động, bà gửi hàng, đô la Mỹ (USD) về nước cho ông BĐ_Bình bán và giữ hộ, cụ thể: - 02 lần gửi hàng: Năm 1990 bà gửi 01 thùng hàng, ông BĐ_Bình nhận và bán được 20.000.000đ; năm 1992 bà gửi tiếp thùng hàng thứ 2, ông BĐ_Bình bán và mua giữ hộ bà 01 cây vàng 9999; - 06 lần gửi tiền: Năm 1993 bà gửi hai lần là 5000 USD, năm 1994 gửi hai lần là 4000 USD, năm 1995 và 1996 mỗi năm gửi 2000 USD, tổng số tiền gửi là 13.000 USD.