98/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 361
- 8
Nguyên đơn vợ chồng ông NĐ_Dương Văn Long bà NĐ_Trần Thị Thủy trình bày: Nguồn gốc 764m2 thuộc thửa 287 tờ bản đồ số 08 tọa lạc tại xã PT, huyện XM, tỉnh BR - VT là một phần đất trong tổng diện tích khoảng 3,5 mẫu của cha mẹ ông NĐ_Long để lại cho ông NĐ_Dương Văn Long. Mặc dù vợ chồng ông NĐ_Long vẫn sử dụng đất, nhưng do sơ xuất khi đăng ký kê khai làm thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất, nên năm 1997 ông NĐ_Long được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 32.925m2. Vợ chồng ông BĐ_Huỳnh Minh Hùng bà BĐ_Ngô Thị Ngân là người có đất liền kề với đất của vợ chồng ông NĐ_Long đã đăng ký kê khai phần diện tích ông bà kê khai bị thiếu, hiện nay qua đo đạc xác định được phần diện tích đất này là 764m2 thuộc thửa 287 nay là thửa 547, tờ bản đồ số 08, xã PT. Do vợ chồng ông BĐ_Hùng đã chuyển nhượng diện tích đất này cho ông LQ_Nguyên Văn Soa, nên vợ chồng ông NĐ_Long có yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Hùng phải trả cho ông bà diện tích đất này.
92/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 223
- 5
Vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Kim Hằng và ông BĐ_Trần Văn Linh là cháu, gọi ông NĐ_Hùng, bà NĐ_Thu là cậu mợ. Năm 1986, vợ chồng ông NĐ_Hùng thấy vợ chồng ông BĐ_Linh không có chỗ ở nên vợ chồng ông NĐ_Hùng cho vợ chồng ông BĐ_Linh cất nhà lá, vách ván, mái tole ở nhờ trên đất ngang 4,5m, dài 8m toạ lạc tại khu phố HĐ, thị trấn LH, huyện LĐ. Hai bên không làm giấy tờ cho ở nhờ nhưng có thoả thuận miệng khi nào vợ chồng ông BĐ_Linh có tiền mua đất thì trả lại đất cho vợ chồng ông NĐ_Hùng. Đến năm 1988, vợ chồng ông BĐ_Linh xin phá bỏ nhà lá cất nhà cấp 4 vì mưa hay dột, vợ chồng ông NĐ_Hùng đồng ý. Cách đây 3-4 năm, vợ chồng ông BĐ_Linh tự ý kêu thợ xây cất thêm chiều dài 6m không hỏi ý kiến vợ chồng ông NĐ_Hùng. Nay vợ chồng ông NĐ_Hùng không cho vợ chồng ông BĐ_Linh ở nữa, yêu cầu trả lại đất, đồng ý hoàn trả lại giá trị nhà theo quy định Nhà nước.
51/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1175
- 11
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Tuân trình bày: Diện tích đất khoảng 4.293m2 hiện gia đình ông BĐ_Nguyễn Văn Nết, bà BĐ_Nguyễn Thị Hồng và bà BĐ_Nguyễn Thị Linh đang ở và canh tác là 01 phần trong tổng diện tích đất của ông ở thửa 63, 80, 81, tờ bản đồ số 15, ấp Phú Thạnh, xã MX, huyện TT, tỉnh BR - VT. Đất này ông nhờ vợ chồng bà LQ_Nguyễn Thị Sương và ông LQ_Phạm Văn Tình mua hộ từ năm 1992 và giao cho vợ chồng ông LQ_Tình trông coi. Sau đó ông LQ_Tình bà LQ_Sương làm giấy sang lại đất cho ông vào ngày 3.3.1992, có xác nhận của chính quyền địa phương. Năm 1994, bà LQ_Sương có cho vợ chồng ông BĐ_Nết, bà BĐ_Hồng mượn 30m2 đất để xây nhà ở, hẹn trong vòng 6 tháng sẽ trả (có làm giấy tay ngày 9.1.1994) nhưng khi đến hạn ông nhiều lần đòi lại đất mà vợ chồng ông BĐ_Nết không trả. Năm 1998, ông đã được UBND Huyện TT cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2002, LQ_Ủy ban nhân dân xã MX cấp nhà tình thương cho gia đình ông BĐ_Nết xây trên đất của ông. Đất đang tranh chấp với gia đình ông BĐ_Nết là tài sản riêng của ông, không liên quan đến vợ ông và vợ ông đã có văn bản xác nhận điều này.
44/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 362
- 3
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Do mối quan hệ lối xóm nên ngày 05/9/2005, bà NĐ_Hồng có cho bà BĐ_Lê Thị Hải vay số tiền là 420.000.000 (bốn trăm hai mươi triệu) đồng để mua đất và đáo hạn Ngân hàng trong thời gian là 03 tháng. Nhưng bà BĐ_Hải kéo dài 14 tháng mới thanh toán hết tiền vốn 420.000.000 đồng cho bà NĐ_Hồng vào ngày 29/10/2006, riêng tiền lãi chưa trả đồng nào. Cùng ngày 05/09/2005, bà BĐ_Hải vay thêm của bà NĐ_Hồng 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng, lãi 4%/tháng, thế chấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà BĐ_Hải, đất toạ lạc tại Châu Đức, thời gian vay là 10 ngày. Khi vay chính bà BĐ_Hải viết “giấy vay nợ” và ký tên tại nhà bà NĐ_Hồng, thời gian ký vào buổi chiều khoảng 15 giờ 00’ đến 16 giờ 00’ ngày 05/09/2005 trong giấy có ghi góp mỗi ngày 2.000.000 (hai triệu) đồng. Từ ngày vay cho đến nay bà BĐ_Hải không trả cho bà NĐ_Hồng đồng vốn và lãi nào.
23/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1209
- 12
Theo án sơ thẩm, Luật sư PND - người bảo vệ quyền lợi cho phía nguyên đơn trình bày: Chị Nguyễn Thị Hòa và anh Nguyễn Văn Sa tự nguyện sống chung với nhau như vự chồng vào năm 1992 và có đăng ký kết hôn năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã TA, thành phố MT. Thời gian đầu chung sống có hạnh phúc, đến đầu năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh Sa nhậu nhẹt không lo làm ăn, không lo kinh tế gia đình. Chị Hòa nhiều lần khuyên can, nhưng anh không nghe mà còn đánh đập chị Hòa nhiều lần, hai người đã ly thân từ tháng 07/2005 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn kéo dài trầm trọng, không thể giải quyết được, nên chị Hòa xin được ly hôn với anh Sa.