07/2007/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1363
- 22
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Theo lời khai của các đương sự tại cấp sơ thẩm thì lúc sinh thời, Ông Du và bà BĐ_Sinh có các tài sản chung gồm: Căn nhà cấp 4A5 diện tích 78,96m2, nhà tạm 72,96m2 nằm trên thửa đất số 60, tờ bản đồ số 40, diện tích 20.939m2 trỏng đó co 300m2 đất thổ cư, Thửa đất số 101, tờ bản đồ số 40, diện tích 9.051m2 cùng tòạ lạc tại Ấp Trảng Lớn, HD, TT, tỉnh BR-VT. Đất đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất năm 1995 đứng tên ông Trần Văn Du. Năm 2001 bà BĐ_Sinh làm thủ tục sang tên toàn bộ diện tích đất trên từ ông Du sang tên bà BĐ_Sinh. Năm 2004 đã làm thủ tục chuyển QSD thửa số 101 sang tên ông LQ_Trần Hữu Đinh.
31/2007/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 705
- 10
Sau khi ông Thuận chết, năm 1987 bà nguyễn Thị Kề là vợ của ông Thuận muốn bán 03 căn nhà số 02 PĐ, NT, nên bà LQ_Tiênận đã gởi đơn đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh KH yêu cầu giải quyết. Tại biên bản làm việc ngày 22/12/1987, tại Viện Kiểm Sát tỉnh KH, Cha tôi là ông Vương phước Trung vẫn khẳng định ông Duyên có để lại hai tờ di chúc cho ông toàn bộ tài sản: Nhà, đất tại 02A LHP, PH, NT và 02 trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT. Tại Viện kiểm sát tỉnh KH, ông Trung tự nguyện giao toàn bộ tài sản là nhà và đất tại 02 PĐ, NT cho bà Nguyễn Thị Kề (vợ ông Thuận) cùng các con ông Thuận, kèm theo biên bản thỏa thuận tại Viện kiểm sát Cha tôi đã giao cho bà Kề cả hai bản di chúc của ông Vương Phước Duyên để lại nhà và đất số 02 PĐ NT cho cha tôi nên bà Kề và các con bà Kề mới bán được 03 căn nhà trên
31/2007/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 686
- 20
Sau khi ông Thuận chết, năm 1987 bà nguyễn Thị Kề là vợ của ông Thuận muốn bán 03 căn nhà số 02 PĐ, NT, nên bà LQ_Tiênận đã gởi đơn đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh KH yêu cầu giải quyết. Tại biên bản làm việc ngày 22/12/1987, tại Viện Kiểm Sát tỉnh KH, Cha tôi là ông Vương phước Trung vẫn khẳng định ông Duyên có để lại hai tờ di chúc cho ông toàn bộ tài sản: Nhà, đất tại 02A LHP, PH, NT và 02 trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT. Tại Viện kiểm sát tỉnh KH, ông Trung tự nguyện giao toàn bộ tài sản là nhà và đất tại 02 PĐ, NT cho bà Nguyễn Thị Kề (vợ ông Thuận) cùng các con ông Thuận, kèm theo biên bản thỏa thuận tại Viện kiểm sát Cha tôi đã giao cho bà Kề cả hai bản di chúc của ông Vương Phước Duyên để lại nhà và đất số 02 PĐ NT cho cha tôi nên bà Kề và các con bà Kề mới bán được 03 căn nhà trên.
24/2007/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 432
- 5
Năm 1976 cố Nguyễn Thị Dành (là mẹ cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh và là bà ngoại của ông) cho ông 700m2 đất tại khu phố ĐN, thị trấn LT, huyện TA, tỉnh BD. Ông đã dựng nhà trên đất rồi đón cụ Hai Hoanh về sống chung. Năm 1977 ông mua của ông Lưu Văn Tư diện tích đất có vị trí liền kề nhà và đất nêu trên, nhung để cụ Hai Hoanh đứng tên trên giấy tờ mua bán. Sau khi mua đất, ông và cụ Hai Hoanh cùng trực tiếp quản lý và sử dụng đất. Năm 1985 cụ Hai Hoanh đúng tên đăng ký, kê khai toàn bộ diện tích đất nêu trên. Năm 1987 ông cùng vợ con chuyển ra sống tại khu phố Chợ, thị trấn LT và cụ Hai Hoanh cũng chuyển đi nơi khác sống cùng cố Dành, nên toàn bộ nhà và đất tại khu phố ĐN, thị trấn LT được giao cho ông BĐ_Nguyễn Văn Trung (là con cụ Hai Hoanh và là em một của ông) quản lý, sử dụng đến nay. Ngày 08/12/1988 cụ Hai Hoanh chết nhưng không để lại di chúc.
916/2007/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 609
- 13
Theo đơn khởi kiện ngày 15/06/2005 và các bảng tự khai ông NĐ_Nguyễn Văn Phương trình bày: Căn nhà số 287/11 NĐC, phường 5, quận X thuộc quyền sở hữu của cha mẹ ông là ông Ngô Văn Quang, sinh năm 1916 (mất ngày 29/06/1999) và bà Nguyễn Thị Mẹo, sinh năm 1927 (mất ngày 26/07/1992) theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10465/98 ngày 21/08/1998 do Ủy ban nhân dân thành phố HCM cấp cho ông Quang và bà Mẹo, đã đóng thuế trước bạ ngày 29/09/1998.