29/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 5034
- 165
Tại đơn khởi kiện đề tháng 9/2004, được sửa đổi ngày 14/4/2005 và các lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng, đại diện NĐ_Công ty GERNAI trình bày: Nhãn hiệu thuốc tránh thai khẩn cấp POSTINOR của NĐ_Công ty GERNAI đã được đăng ký quốc tế từ năm 1978 theo Thỏa ước Madrid và sản phẩm đã được giới thiệu tại thị trường Việt Nam từ năm 1992; đến năm 1995 thì được Cục quản lý Dược Bộ Y tế cấp Giấy phép đăng ký số VN 0690-95. Đầu năm 2003, NĐ_Công ty GERNAI đã thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam và chính thức đăng ký nhãn hiệu thuốc POSTINOR, được Cục sở hữu công nghiệp Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam xác nhận tên thuốc POSTINOR đã đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid và được gia hạn lại từ năm 1998. Từ đó, doanh thu của NĐ_Công ty GERNAI trên thị trường Việt Nam về loại sản phẩm này năm sau luôn cao hơn năm trước.
29/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4483
- 169
Đòi bồi thường thiệt hại do hành vị cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp
Tại đơn khởi kiện đề tháng 9/2004, được sửa đổi ngày 14/4/2005 và các lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng, đại diện NĐ_Công ty GERNAI trình bày: Nhãn hiệu thuốc tránh thai khẩn cấp POSTINOR của NĐ_Công ty GERNAI đã được đăng ký quốc tế từ năm 1978 theo Thỏa ước Madrid và sản phẩm đã được giới thiệu tại thị trường Việt Nam từ năm 1992; đến năm 1995 thì được Cục quản lý Dược Bộ Y tế cấp Giấy phép đăng ký số VN 0690-95. Đầu năm 2003, NĐ_Công ty GERNAI đã thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam và chính thức đăng ký nhãn hiệu thuốc POSTINOR, được Cục sở hữu công nghiệp Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam xác nhận tên thuốc POSTINOR đã đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid và được gia hạn lại từ năm 1998. Từ đó, doanh thu của NĐ_Công ty GERNAI trên thị trường Việt Nam về loại sản phẩm này năm sau luôn cao hơn năm trước.
21/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1048
- 14
Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2004 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là ông Huỳnh Thế Vinh trình bày: ông là Việt Kiều từ Mỹ về nước và có chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Trang từ năm (1993) nhưng không đăng ký kết hôn; quá trình chung sống, ông và bà Trang có 03 người con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Gia Bảo sinh ngày: 24/4/1996, cháu Nguyễn Huỳnh Gia Phúc và cháu Nguyễn Huỳnh Gia Lộc song sinh ngày: 13/3/1997. Do mâu thuẫn trầm trọng trong cuộc sống, nên ông Vinh đề nghị Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân, về tài sản chung và nợ chung giữa ông và bà Trang, về con chung ông Vinh đồng ý để bà Trang nuôi dưỡng, ông sẽ cấp dưỡng nuôi con.
20/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3754
- 66
Tranh chấp sở hữu chung hỗn hợp
Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/4/2005 và trong quá trình tham gia tố tụng, ông NĐ_Đậu Ngọc Luân trình bày: Ngày 04/3/2003, ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng đã ký kết hợp đồng liên doanh liên kết số 15/2003. Theo hợp đồng, ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng cùng góp vốn để hợp tác với LQ_Công ty Hwan Tinan thực hiện việc khai thác và nhập khẩu gỗ từ Campuchia về Việt Nam tiêu thụ hoặc tái xuất khẩu, thời hạn kết thúc hợp đồng là ngày 31/12/2003. Cùng ngày 04/3/2003, ông đã góp cho BĐ_Công ty Thanh Hồng 2.000.000.000 đồng. Sau khi góp vốn, ông đã cùng bà Nga sang Campuchia để tìm hiểu về khả năng thực hiện việc liên doanh liên kết. Sau đó, BĐ_Công ty Thanh Hồng và LQ_Công ty Hwan Tinan ký kết hợp đồng vào thời điểm nào thì ông không được biết, nhưng khi hết thời hạn thỏa thuận giữa ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng thì không thấy BĐ_Công ty Thanh Hồng nhập khẩu gỗ về Việt Nam. Ông đã nhiều lần yêu cầu BĐ_Công ty Thanh Hồng hoàn trả lại cho ông phần vốn ông đã góp, nhưng BĐ_Công ty Thanh Hồng không trả.
315/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 640
- 4
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 7/5/2004 và lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà NĐ_Huỳnh Thị Mai, bà NĐ_Huỳnh Thị Chinh trình bày: Căn nhà 8F/7 BĐ, phường 14, quận Z, thành phố HCM có nguồn gốc đất của cụ Huỳnh Thị Hoa và cụ Nguyễn Văn Thơm. Vợ chồng cụ Hoa và cụ Thơm có hai người con là bà NĐ_Huỳnh Thị Chinh và bà NĐ_Huỳnh Thị Mai. Năm 1985 cụ Thơm chết; năm 1988 cụ Hoa cho ông BĐ_Nguyễn Ngọc Sang và bà BĐ_Bùi Tuyết Miên vào cất căn chòi có diện tích 24,5m2. Sau đó vợ chồng ông BĐ_Sang tự ý xây cất cơi nới thành 87m2 và năm 2001 tự ý đi hợp thức hóa nhà. Ngày 7/4/2004 cụ Hoa đã khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Sang bà BĐ_Miên phải tháo dỡ phần xây dựng đê trả lại cho bà phần đất có diện tích 87m2.