121/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 505
- 4
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ngày 20/12/2001 bà ký hợp đồng mua của BĐ_Công ty cổ phần Hà Minh (nay là BĐ_Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng Hà Minh) căn hộ số 11, lô số 2 (nhà ở xây thô 3,5 tầng, diện tích đất xây dựng 82,2m2 trên diện tích đất là 82,2m2) với giá 360.000.000 đồng. Ngay sau khi ký hơp đồng, bà đã nộp cho công ty 221.940.000 đồng (2/3 giá trị hợp đồng do ông Phan Anh Tề hàng xóm của bà nộp hộ), số tiền còn lại bà sẽ thanh toán trước khi nhận nhà và các giấy tờ liến quan để làm thủ tục sở hữu. Sau khi ký hợp đồng và nhận tiền, Công ty không thi công xây nhà theo thỏa thuận và đưa ra nhiều lý do. Cuối năm 2004, Công ty xây được phần mỏng nhà. Năm 2005, Công ty yêu cầu bà ký lại hợp đồng mua bán nhà theo giá mói là 1.512.960.988 đồng nhưng bà không đồng ý. Bà yêu cầu BĐ_Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng Hà Minh phải thực hiện hợp đồng đã ký năm 2001.
115/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1041
- 13
Năm 1968, cụ Vy chết; ông và cụ Nguyễn Thị Tất đồng ý cho bà BĐ_Nguyễn Thị Châu (là em cửa ông) dựng nhà ở tạm trên một phần đất, nhưng sau đó bà BĐ_Châu chiếm toàn bộ nhà đất nêu trên. Năm 1994, được sự ủy quyên của cụ Tât, ông đã khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Châu trả lại nhà đất và tại Quyết định số 67/QĐ ngày 29/10/1996, Tòa án nhân dân thành phố H đình chỉ giải quyết vụ án với lý do: cụ Tất khởi kiện đòi lại nhà cho ở nhờ, nhưng đã chết. Sau đó, ông tiếp tục có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản nêu trên, nhưng do em trai ông là ông LQ_Nguyễn Đình Thức đang ở nước ngoài nên Tòa án nhân dân tỉnh TTH tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đến ngày 08/11/2006, Tòa án nhân dân tỉnh TTH có thông báo tiếp tục giải quyết vụ án. Ông yêu cầu chia thừa kế tài sản của bố mẹ ông để lại theo quy định của pháp luật.
113/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1396
- 50
Cụ Nguyên Mô và cụ Bùi Thị Chảnh có 06 người con gồm ông Nguyễn Hai (chết năm 2007, có vợ là bà BĐ_Phan Thị Cúc và 05 người con), ông LQ_Nguyễn Bảo, bà LQ_Nguyễn Thị Tú, ông NĐ_Nguyễn Văn Xinh, bà LQ_Nguyễn Thị Bình, bà LQ_Nguyễn Thị Linh. Hai cụ có căn nhà từ đường trên khoảng 3000m2 đất thửa số 722 tại tổ 7, thôn Xuân Lạc 2, xã VN, thành phố NT, tỉnh KH. Ngoài ra, hai cụ còn có thửa đất màu (liền kề thửa 722), diện tích khoảng 1500m2. Năm 1973, cụ Chảnh chết, không để lại di chúc. Năm 1993, cụ Mô chết cũng không để lại di chúc. Sau khi cụ Mô chết, vợ chồng ông Hai, bà BĐ_Cúc tiếp tục quản lý tài sản nhà và đất. Năm 2002, ông Hai bị ốm không có tiền chữa bệnh nên các anh em thống nhất thỏa thuận chia thửa đất màu; theo đó, ông và ông LQ_Bảo, mỗi người được chia 120m2 đất, bà LQ_Tú, bà LQ_Bình và bà LQ_Linh mỗi người được chia 80m2 đất, phần đất còn lại ông Hai bán lấy tiển chữa bệnh. Năm 2004, các anh em ông góp tiền sửa chữa ngôi nhà từ đường. Năm 2007, ông Hai chết. Sau đó, bà BĐ_Cúc chuyển nhượng toàn bộ đất cho con là anh LQ_Nguyễn Nam và phân chia đất cho các con, không có sự đồng ý của các anh em ông.
365/2013/DS-GĐT: Yêu cầu chia thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1035
- 18
Nguyên đơn NĐ_Võ Văn Ninh trình bày: Cha chúng tôi tên Võ Văn Sướng, chết năm 1997, mẹ tôi Khấu Thị Lệ chết năm 1996. Cha mẹ có 7 người con gồm: NĐ_Võ Văn Trung, NĐ_Võ Văn Ninh, NĐ_Võ Thị Dương, NĐ_Võ Văn Hùng, NĐ_Võ Thị Loan, BĐ_Võ Văn Kiên, NĐ_Võ Thị Mỹ Linh. Cha mẹ có một phần đất diện tích 6.160m2, đo đạc thực tế là 6.624m2, cha mẹ chết không để lại di chúc hay định đoạt cho ai. Sau khi cha mẹ chết, anh em có thống nhất phần đất của cha mẹ để lại giao cho BĐ_Võ Văn Kiên canh tác nhưng trong quá trình canh tác, BĐ_Kiên không chăm sóc và tu bổ đất nên chúng tôi yêu cầu chia tài sản của cha mẹ để lại cho các con trai là 1.000m2, con gái là 500m2, cụ thể như sau: NĐ_Võ Văn Trung trước đây cha mẹ có cho 635m2 nay vêu cầu chia thêm 365m2 để đủ 1.000m2, NĐ_Võ Văn Hùng 1.000m2, NĐ_Võ Thị Dương 500m2, NĐ_Võ Thị Loan 500m2, NĐ_Võ Thị Mỹ Linh 500m2, BĐ_Võ Văn Kiên phần còn lại ở thửa 317 tờ bản đồ số 4 ấp An Quới, xã ĐT, huvện MCN, tỉnh BT. Phần thô mộ giao cho ai cúng giỗ thì quản lý, phần đất giáp rạch hiện đã lở không canh tác được có diện tích 902m2 nhập vào thổ mộ.
363/2013/DS-GĐT: Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1829
- 43
Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/03/2009 và các lời khai tiếp theo - nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Châu và bà NĐ_Nguyễn Thị Ban trình bày: cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Nhà (chết năm 2006) và Phạm Thị Việt (chết năm 1998). Cha mẹ các bà có tạo lâp được diện tích đất ở ấp Tân Điền, xã LT (thửa số 204, tờ bản đồ số 03, diện tích thực tế 1112m2, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 26.05.2009 đối với 832m2, đứng tên bà BĐ_Nguyễn Thị Sang) và ấp Lộc Tiền xã ML (thửa đất số 10 tờ bản đồ số 15, diện tích 2198m2, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 21.05.2002 đứng tên cụ Nguyễn Văn Nhà) đều ở huyện CG, tỉnh LA. Sau khi cụ Nguyễn Văn Nhà chết, bà BĐ_Nguyễn Thị Sang và bà BĐ_Nguyễn Thị Linh có dỡ nhà cũ của cụ Nguyễn Văn Nhà đi và dựng nhà mới trên đất tại xã ML. Còn diện tích đất tại xã LT hiện do anh LQ_Nguyễn Anh Tài, con trai bà BĐ_Nguyễn Thị Sang quản lý, sử dụng, trên đất có nhà của anh LQ_Nguyễn Anh Tài và nhà của người khác đang ở trên phần đất mà anh LQ_Nguyễn Anh Tài đã bán.