19/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 410
- 5
Theo bà Lê Thị Dững cho biết: Bà Dững và ông Tẩn kết hôn vào năm 1987, không có đăng ký kết hôn và không có con chung. Tài sản chung tạo lập được gồm 01 căn nhà ngói tọa lạc tại ấp 3, xã VL, huyện AP, tỉnh AG, 01 chiếc ghe trọng tải 140 tấn, 1,5 ha đất nông nghiệp, 01 nền nhà giá 10.000.000đ, 01 căn nhà bằng gỗ 30.000.000đ. Tài sản riêng gồm có: 12 chỉ vàng 24K, 300 giạ lúa. Vào năm 2001 con riêng của ông Tẩn về chung sống trong nhà đã xảy ra nhiều việc bất đồng cãi vã nhau trong gia đình đồng thời cũng phát hiện được ông Tẩn chưa ly hôn dứt khoát với người vợ cũ tên là Năm. Do đó bà yêu cầu Tòa án hủy hôn nhân trái pháp luật giữa bà và ông Tẩn. Về phần tài sản xin được chia theo pháp luật.
413/2006/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 286
- 2
Bà Yến và ông Long chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1990 nhưng không đăng ký kết hôn. Trước khi chung sống với ông Long thì bà Yến đã từng chung sống với hai người đàn ông khác như sau: Từ năm 1980 đến năm 1983, bà Yến chung sống với ông Trần Văn Sơn nhưng không đăng ký kết hôn, hai đương sự có hai người con đã thành niên (hiện nay không ai biết ông Sơn đang ở đâu). Từ năm 1980 đến năm cuối năm 1990, bà Yến chung sống với ông Bùi Văn Xiêm nhưng không đăng ký kết hôn; hai đương sự cố một người con chung đã thành niên. Trong thời gian chung sống, bà Yến và ông Long có hai người con chung tên là: Nguyễn Hoàng Oanh (nữ, sinh năm 1992) và Nguyễn Hồng Nhạn (nữ, sinh năm 1994).
2560/2009/KDTM-PT Phúc thẩm Kinh doanh thương mại
- 1553
- 81
Tranh chấp hợp đồng thuê kho bãi
Đại diện cho NĐ_Tổng Công ty Địa ốc LK - ông Phạm Văn Nhật trình bày: Công ty kho bãi Thành phố HCM là doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập được chuyển thành đơn bị hạch toán phụ thuộc NĐ_Tổng Công ty Địa ốc LK theo Quyết định số 673/QĐ-ƯB ngày 14/2/2003 của Ủy ban nhân dân thành phố HCM với chức năng: kinh doanh địa ốc, kho bãi, hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp, nhà ở theo Nghị định số 61/CP ngày 5/7/2009 của Chính phủ. Năm 2007, được sự ủy quyền của NĐ_Tổng Công ty Địa Ốc LK, Công ty kho bãi thành phố có ký hợp đồng cho thuê kho bãi số 46/TP/HĐ-2007 ngày 16/3/2007 với BĐ_Công ty TNHH SX-TM Kiêu Dương
141/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 846
- 10
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn, ông NĐ_Trần Duy Hiền xác định yêu cầu khởi kiện, như sau: Ngày 20/01/2006, Ong đã lập hợp đồng về việc nhận chuyến nhượng của vợ chồng ông BĐ_Chu Đức Minh và bà BĐ_Lê Thị Xinh lô đất có diện tích 72,30m2 (rộng 4,50m X dài 16,07m), số C5-2/45, thuộc tờ bản đồ quy hoạch khu Trung tâm Chí Linh, phường Y (cũ) nay là phường TN, thành phố VT, với giá 250.000.000 đồng (Giấy tự lập, không qua công chứng, chứng thực của chính quyền địa phương). Trong đó, hai bên có thoả thuận vói nội dung: Trả đủ số tiền trên ngay sau khi ký hợp đồng. Nếu vì bất kỳ lý do gì mà bên B (bên mua) không mua thì bị mât tiên đã giao là 250.000.000 đồng. Nếu vì bất kỳ lý do gì mà bên A (bên bán) không bán thì bị phạt gấp hai lần số tiền mà bên B đã thanh toán, cụ thể là 500.000.000 đồng.
107/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 929
- 13
Nguyên đơn, ông NĐ_Nguyễn John xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Ông là người gốc Việt có quốc tịch Hoa kỳ về Việt Nam sinh sống từ năm 2000. Từ khi về Việt Nam ông có quen biết với bà BĐ_Phạm Thị Kim Phượng và đã đưa cho bà BĐ_Phượng giữ một số tài sản, gồm: 275 lượng vàng SJC và 24.500USD. Số tài sản trên được đưa nhiều lần và không làm giấy tờ biên nhận. Mục đích ông đưa tiền, vàng là để bà BĐ_Phượng mua đất giùm ông, do ông là Việt Kiêu nên không được phép đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, bà BĐ_Phượng không mua đất nên hai bên có thỏa thuận như sau: bà BĐ_Phượng sẽ trả số tiền, vàng nêu trên cho ông vào ngày 15/8/2002. Đúng hẹn, bà BĐ_Phượng không thực hiện thỏa thuận. Khoảng tháng 10/2002, bà BĐ_Phượng có trả cho ông 31 lượng vàng SJC và 24.500USD, hai bên không làm giấy tờ biên nhận.