cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

92/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 223
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-08-2009
TAND cấp tỉnh

Vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Kim Hằng và ông BĐ_Trần Văn Linh là cháu, gọi ông NĐ_Hùng, bà NĐ_Thu là cậu mợ. Năm 1986, vợ chồng ông NĐ_Hùng thấy vợ chồng ông BĐ_Linh không có chỗ ở nên vợ chồng ông NĐ_Hùng cho vợ chồng ông BĐ_Linh cất nhà lá, vách ván, mái tole ở nhờ trên đất ngang 4,5m, dài 8m toạ lạc tại khu phố HĐ, thị trấn LH, huyện LĐ. Hai bên không làm giấy tờ cho ở nhờ nhưng có thoả thuận miệng khi nào vợ chồng ông BĐ_Linh có tiền mua đất thì trả lại đất cho vợ chồng ông NĐ_Hùng. Đến năm 1988, vợ chồng ông BĐ_Linh xin phá bỏ nhà lá cất nhà cấp 4 vì mưa hay dột, vợ chồng ông NĐ_Hùng đồng ý. Cách đây 3-4 năm, vợ chồng ông BĐ_Linh tự ý kêu thợ xây cất thêm chiều dài 6m không hỏi ý kiến vợ chồng ông NĐ_Hùng. Nay vợ chồng ông NĐ_Hùng không cho vợ chồng ông BĐ_Linh ở nữa, yêu cầu trả lại đất, đồng ý hoàn trả lại giá trị nhà theo quy định Nhà nước.


89/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 255
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

14-08-2009
TAND cấp tỉnh

Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất, bà BĐ_Miển trình bày như sau: Vào năm 1965, bà BĐ_Miển và ông LQ_Cởn mua của ông Lê Văn Dương và bà Đào Thị Hai diện tích đất nêu trên và 01 căn nhà (bà BĐ_Miển, ông LQ_Cởn đang sử dụng nhà). Đây là nhà đất mà ông Lê Văn Tải chia cho ông Dương. Tại thời điểm ông Dương được chia nhà đất, thì ông Lê Văn Đẩu (anh ông Dương) cũng được ông Lê Văn Tải chia cho nhà và đất. Sau khi ông Đẩu qua đời, đến năm 1977, bà Dư Thị Giàu chia đất mà ông Đẩu được hưởng nêu trên làm hai phần cho ông LQ_Cởn và ông BĐ_Dũng, mỗi người một phần. Khi bà Giàu chia đất cho ông LQ_Cởn, ông BĐ_Dũng thì bà Giàu đã lấy đất mà vợ chồng bà BĐ_Miển mua của ông Dương (phần đất tranh chấp) để chia, bà BĐ_Miển không chấp nhận, đã khiếu nại tại Ủy ban nhân dân xã Phước Long Thọ. Kết quả giải quyết thì phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà BĐ_Miển. Năm 1981, bà BĐ_Miển giao diện tích nêu trên cho bà Giàu sử dụng. Năm 1992, bà Giàu chết, ông BĐ_Dũng tiếp tục sử dụng. Vào năm 2008, Ủy ban nhân dân huyện ĐĐ đã thu hồi một phần diện tích đất tranh chấp là 515m2 để cải tạo nâng cấp Tỉnh lộ 52. Diện tích đất còn lại là 65m2.


47/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 377
  • 4

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-04-2009
TAND cấp tỉnh

Năm 2005, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Đức Dũng tự ý chiếm dụng của gia đình ông diện tích đất 30 m2 để xây cầu trái phép (không có giấy phép) và 138m2 đất sử dụng làm đường đi riêng cho gia đình ông BĐ_Dũng. Toàn bộ diện tích đất chiếm dụng nêu trên là một phần đất thuộc thửa 73, tờ bản đồ số 33 toạ lạc tại ấp Tân Lộc, xã PH, huyện TT, tỉnh BR - VT. Thửa đất trên gia đình ông NĐ_Cường đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T838079 vào sổ số 02750-QSDD/347/QDTJBH vào ngày 07/2/2002. Do đó, ông NĐ_Cường yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Dũng trả lại đường đi, dỡ bỏ cổng, cầu, trả lại đất cho gia đình Ông.


45/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1971
  • 33

Tranh chấp hợp đồng chơi hụi

17-04-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Phượng xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Vào những năm 1998 - 1999, Bà có làm chủ 03 dây hụi và bà BĐ_Nguyễn Thị Kim (Mai) có tham gia chơi, cụ thể: Dây 1: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999 mở dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia. Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho Bà là 12.000.000 đồng nhưng không đóng. Dây 2: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999, hụi 1.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia. Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho bà là 10.000.000 đồng nhưng không đóng. Dây 3: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999, hụi 2.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia, Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho Bà là 20.000.000 đồng nhưng cũng không đóng.


44/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 362
  • 3

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

17-04-2009
TAND cấp tỉnh

Do mối quan hệ lối xóm nên ngày 05/9/2005, bà NĐ_Hồng có cho bà BĐ_Lê Thị Hải vay số tiền là 420.000.000 (bốn trăm hai mươi triệu) đồng để mua đất và đáo hạn Ngân hàng trong thời gian là 03 tháng. Nhưng bà BĐ_Hải kéo dài 14 tháng mới thanh toán hết tiền vốn 420.000.000 đồng cho bà NĐ_Hồng vào ngày 29/10/2006, riêng tiền lãi chưa trả đồng nào. Cùng ngày 05/09/2005, bà BĐ_Hải vay thêm của bà NĐ_Hồng 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng, lãi 4%/tháng, thế chấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà BĐ_Hải, đất toạ lạc tại Châu Đức, thời gian vay là 10 ngày. Khi vay chính bà BĐ_Hải viết “giấy vay nợ” và ký tên tại nhà bà NĐ_Hồng, thời gian ký vào buổi chiều khoảng 15 giờ 00’ đến 16 giờ 00’ ngày 05/09/2005 trong giấy có ghi góp mỗi ngày 2.000.000 (hai triệu) đồng. Từ ngày vay cho đến nay bà BĐ_Hải không trả cho bà NĐ_Hồng đồng vốn và lãi nào.