cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

05/2009/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 2496
  • 42

Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản

12-03-2009

BĐ_Công ty Tín Nghĩa được thuê 1.145m2 để xây dựng trụ sở kinh doanh và xưởng sản xuất, phân theo thời gian đã sử dụng: Từ ngày 27/7/1002 đến ngày 31/12/1994 (17 tháng) đã sử dụng 640,10m2; từ ngày 31/12/1992 đến ngày 31/12/1993 (12 tháng) đã mở rộng thêm diện tích sử dụng 244m2; từ ngày 30/8/1994 đến ngày 31/12/1994 (4 tháng) mở rộng thêm diện tích sử dụng 260,90m2; từ ngày 01/01/1995 được tính chung diện tích 1.145 m2, giá trị và cách thanh toán: của năm 1994 là 27.478.605 đồng, từ năm 1995 lấy diện tích chung là 1.145m2 . Hợp đồng thuê đất được tính cho thời gian 10 năm theo đúng Điều lệ của BĐ_Công ty Tín Nghĩa. Đến ngày 12/9/1997, hai bên ký tiếp Phụ kiện hợp đồng số 01/PKHĐ, theo đó xác định diện tích sử dụng đất thuê của BĐ_Công ty Tín Nghĩa là 1442,5m2 gồm nhà xưởng là 1080m2, diện tích mở rộng và sân là 362,5m2, đơn giá thuê đất là 1850 đồng/m2/tháng. Hai bên sẽ đối chiếu hàng tháng, thanh toán dứt điểm.


05/2009/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 1119
  • 26

Tranh chấp hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất

12-03-2009

BĐ_Công ty Tín Nghĩa được thuê 1.145m2 để xây dựng trụ sở kinh doanh và xưởng sản xuất, phân theo thời gian đã sử dụng: Từ ngày 27/7/1002 đến ngày 31/12/1994 (17 tháng) đã sử dụng 640,10m2; từ ngày 31/12/1992 đến ngày 31/12/1993 (12 tháng) đã mở rộng thêm diện tích sử dụng 244m2; từ ngày 30/8/1994 đến ngày 31/12/1994 (4 tháng) mở rộng thêm diện tích sử dụng 260,90m2; từ ngày 01/01/1995 được tính chung diện tích 1.145 m2, giá trị và cách thanh toán: của năm 1994 là 27.478.605 đồng, từ năm 1995 lấy diện tích chung là 1.145m2 . Hợp đồng thuê đất được tính cho thời gian 10 năm theo đúng Điều lệ của BĐ_Công ty Tín Nghĩa. Đến ngày 12/9/1997, hai bên ký tiếp Phụ kiện hợp đồng số 01/PKHĐ, theo đó xác định diện tích sử dụng đất thuê của BĐ_Công ty Tín Nghĩa là 1442,5m2 gồm nhà xưởng là 1080m2, diện tích mở rộng và sân là 362,5m2, đơn giá thuê đất là 1850 đồng/m2/tháng. Hai bên sẽ đối chiếu hàng tháng, thanh toán dứt điểm.


02/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 4622
  • 232

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

09-01-2014

Ngân hàng công thương Việt Nam (nay là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam) - Chi nhánh khu công nghiệp Bình Dương (sau đây gọi tắt theo tên giao dịch là VietinBank) và Công ty TNHH Ngọc Quang (sau đây gọi tắt là Công ty Ngọc Quang) ký kết nhiều hợp đồng tín dụng; tính đến năm 2006, hai bên xác nhận còn lại 13 hợp đồng tín dụng quá hạn chưa thanh toán với tổng số tiền nợ gốc là 12.264.300.000 đồng. Để đảm bảo cho các khoản vay của 13 Hợp đồng tín dụng này, hai bên đã ký kết 09 Hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh


12/2013/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 3189
  • 112

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

16-05-2013

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/7/2010 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy: Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long (sau đây viết tắt là Vietcombank) và Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli (sau đây viết tắt là Công ty Kaoli) có ký kết 04 hợp đồng tín dụng, gồm: Hợp đồng tín dụng số 03/07/NHNT.TL ngày 25/12/2007; số 04/07/NHNT.TL ngày 28/12/2007; số 144/08/NHNT.TL ngày 28/3/2008 và số 234/08/NHNT.TL ngày 27/5/2008. Các hợp đồng tín dụng nêu trên được bảo đảm bằng tài sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở


143/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2292
  • 41

Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

13-11-2013

Ngày 15/5/2008, bà Văn Anh Muội ký hợp đồng tặng cho bà Văn Anh Kim (là chị gái của bà Muội) nhà, đất tại số 04 Lê Văn Hưu, phường Bến Nghé, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là nhà số 04 Lê Văn Hưu), hợp đồng được công chứng tại Phòng Công chứng số 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do bà Muội tặng cho bà Kim nhà này vì thời điểm đó bà Muội bị bệnh nặng, bác sĩ chẩn đoán là khó có thể sống được, bà Muội không có chồng con; khi đó, bà Kim từ Canada về nói với bà Muội tặng cho bà Kim nhà để phòng ngừa rủi ro, nếu bà Muội không qua khỏi bạo bệnh thì có người đứng ra lo thủ tục giấy tờ; bà Kim chỉ quản lý giùm và hứa không chuyển nhượng cho người khác, nếu bà Muội qua khỏi thì hai bên huỷ hợp đồng tặng cho. Do tin tưởng bà Kim nên bà Muội đã ký kết hợp đồng tặng cho nhà số 04 Lê Văn Hưu cho bà Kim. Khi ký hợp đồng tinh thần bà Muội không minh mẫn. Mục đích việc tặng cho nhà số 04 Lê Văn Hưu là nếu bà Muội chết thì căn nhà sẽ được chia cho một vài anh chị em. Khi ông Nguyễn Thanh Bình (là chồng của bà Kim) không cho bà Muội ờ nhà số 04 Lê Văn Hưu thì bà Muội mới biết bà Kim đã được sang tên quyền sở hữu nhà.