93/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2089
- 47
Tại đơn khởi kiện ngày 27/3/2002 và lời khai của ông NĐ_Nguyễn Văn Hoà trong quá trình tố tụng trình bày: Ông được ủy ban nhân dân quận TB cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời ngày 20/7/1991 với diện tích đất màu là 2.728m2 thuộc thửa 279, 280, 281, 282, 285. ông có nhường lại cho bà BĐ_Lê Thị Phú một phần diện tích là 4m X 8m = 32m2 để xây dựng nhà ở. Trong quá trình sử dụng, bà BĐ_Phú đã lấn chiếm thêm nên diện tích hiện nay bà BĐ_Phú đang sử dụng là hơn 300m2. Nay ông yêu cầu bà BĐ_Phú phải trả lại diện tích đã lấn chiếm là 271,7m2.
05/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1155
- 29
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 21/7/2006 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Ron James Brown (sau đây gọi tắt là ông NĐ_Brown), bà NĐ_Trần Thị Bình trình bày: Năm 2005, năm 2006, vợ chồng ông bà đã gửi cho vợ chồng ông BĐ_Nhan Hùng Chiến, bà LQ_Trần Thị Sang (em ruột bà NĐ_Bình) 65.000 USD (gửi 8 lần) để mua đất, cất nhà giùm cho ông bà về ở dưỡng già (trong đó 10.000 USD mua đất, 55.000 USD cất nhà; việc gửi tiền được thông qua công ty Omnex Group Inc “Le gởi tiền Lẹ” ở Mỹ, chuyển qua LQ_Công ty TNHH Kiều hối Thanh An tại thành phố HCM, do ông LQ_Lê Hoàng Thắng là nhân viên công ty đã trực tiếp giao tiền cho ông BĐ_Chiến). Ông BĐ_Chiến đã nhận tiền vì ông đã nhận được 7 hồi báo.
64/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 579
- 7
NĐ_Nguyễn Ngọc Phú trình bày: Vào năm 1984 ông mua căn nhà số 167 PTG, phường 2 thành phố MT có chiều rộng là 3,5m, chiều dài 35m, tổng diện tích 367,4m2, diện tích sử dụng là 252m2, lúc này chỉ có cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Đến năm 1995, ông NĐ_Phú xin làm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có tranh chấp. Năm 2004 Ban tư pháp phường 2 có mời hai bên ra hòa giải, ông NĐ_Phú vì muốn tình chòm xóm được vui vẻ nên có thương lượng đồng ý đưa cho chị BĐ_Thư 10 lượng vàng 24K để chị BĐ_Thư xây 1 cái gác và chị BĐ_Thư sẽ trả lại phần phía sau cho ông NĐ_Phú, căn nhà này ông mua của bà Lưu Chấn Định xây dựng trước khi nhà sau của chị BĐ_Thư xây dựng. Nhưng chị BĐ_Thư không đồng ý sự thương lượng đó. Nay ông yêu cầu chị BĐ_Thư trả lại phần đất nhà sau với diện tích là 10,2m2 khi án có hiệu lực, không đền bù khoản tiền nào.
14/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 290
- 5
Theo đơn khởi kiện ngày 02/8/2005 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Sơn Chinh khai: Nhà đất của gia đình bà và nhà đất của gia đình ông BĐ_Phong liền kề. Nguồn gốc diện tích 116m2 đất thổ cư mà gia đình bà đang quản lý, sử dụng là do cha mẹ bà để lại, ngày 25/6/1997 bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn gốc nhà đất của ông BĐ_Phong là của bà Bùi Thị Thương. Năm 1984 bà Thương bán cho ông BĐ_Phong, năm 1987 ông BĐ_Phong xây thành nhà kiên cố. Căn cứ vào khế ước tá điền mà cha bà được cấp năm 1972 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà được cấp thì ranh đất giữa gia đình bà và gia đình ông BĐ_Phong là một đường thẳng, nay lại là đường gãy khúc là do ông BĐ_Phong xây nhà lấn sang một phần đất trống của gia đình bà là 0,23m x 7,3m = l,7m2; khi ông BĐ_Phong xây nhà bà đi vắng nên không biết, khi phát hiện thì ông BĐ_Phong thỏa thuận miệng là cho bà sử dụng phần kiến trúc xây dựng trên đất của bà, cụ thể là cho bà sử dụng chung bức tường nhà do ông BĐ_Phong xây dựng, nên hiện nay căn nhà của bà có phần tường chung với tường bên nhà ông BĐ_Phong.
13/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 298
- 5
Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2005 và các lời khai trong quá trình tố tụng của bà NĐ_Trần Thị Giang khai: Trước dây bà có mua của cha mẹ bà là cụ Trần Văn Kích và Lê Thị Kiêng 6 công tầm cắt đất tọa lạc tại Kênh Xáng Cả Mây thuộc ấp Hiệp Hưng, xã HX, huyện Châu Phú, tỉnh AG, Trần Thị Ca biết. Ngày 15/9/1994, bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 7.516m2. Bà trực tiếp canh tác đến năm 1996 cho cháu ruột là anh Trần Phước Ty mượn canh tác được khoảng 2 năm lấy lại để cho chị Nguyễn Thị Kim Hoàng (là con nuôi và cũng là cháu ruột) canh tác. Năm 2001, lấy lại cho vợ chồng bà BĐ_Trần Thị Kim Duyên (là em gái) canh tác; vợ chồng bà BĐ_Duyên canh tác được một thời gian thì đem cố cho người khác. Sau khi bà phát hiện vợ chồng bà BĐ_Duyên tự đem đất của bà cô thì xây ra tranh chấp.