77/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 848
- 31
Tuy nhiên, đất tranh chấp có nguồn gốc của gia đình cụ Còn cho cụ Quế thuê và trước khi cụ Quế được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997 thì năm 1993 chính quyền địa phương đã giải quyết tranh chấp và gia đình cụ Quế đã đồng ý trả gia đình cụ Còn 5 lượng vàng. Theo nguyên đơn thì nay gia đình cụ NĐ_Ái có nhiều người (14 người con) nhưng chỉ còn duy nhất một căn nhà trong hẻm là 262/2H HVB nên cũng khó khăn. Đất tranh chấp cụ Quế mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 166m2 (đo đạc thực tế là 209,9m2). Vì vậy, khi giải quyết lại vụ án cũng cần xem xét để đôi bên có thể thương lượng, gia đình cụ Quế có thể hỗ trợ phần nào kinh tế để giảm bớt khó khăn cho gia đinh cụ NĐ_Ái và cũng là phù hợp với đạo lý
56/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3119
- 96
Trong vụ án tranh chấp về chia tài sản thừa kế, ông NĐ_Giao Tùng Ngô là người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Mỹ nhưng Tòa án chưa thu thập chứng cứ làm rõ ông NĐ_Giao Tùng Ngô có đủ điều kiện sở hữu nhà tại Việt Nam hay không mà đã công nhận cho ông Tú được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở Việt Nam là không đúng (Quy định tại Điều 22 Nghị quyết 1037/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia).
55/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 656
- 21
Bà NĐ_Huỳnh Thị Kiều kiện đòi vợ chồng ông BĐ_Bùi Văn Nên, bà BĐ_Nguyễn Thị Chi trả lại một phần đất của cha ông để lại. Vợ chồng ông BĐ_Nên, bà BĐ_Chi không đồng ý và cho rằng đất này vợ chồng ông quản lý sử dụng liên tục từ trước 1975 đã đăng ký sổ địa chính qua các thời kỳ 1980, 1991, 1995 và đóng thuế với Nhà nước. Đây chỉ là ý kiến phản bác của bị đơn đối với nguyên đơn mà không phải là yêu cầu phản tố nên không phải đóng tạm ứng án phí. Tòa án cấp cấp phúc thẩm nhận định: “ở cấp sơ thẩm bị đơn không đóng tiền tạm ứng án phí về yêu cầu công nhận quyền sử dụng phần diện tích đất tranh chấp cho mình nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại công nhận quyền sử dụng phần diện tích đất có tranh chấp cho bị đơn là vi phạm tố tụng” là không đúng.
54/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 879
- 35
Nguồn gốc nhà đất tại 161/36 (số cũ 161/137b) BHN, phường 7, quận Y, thành phố HCM là tài sản của cố Phan Thị Tuyết (là mẹ của cụ) mua từ năm 1950, có giấy phép tạm cất nhà do chính quyền chế độ cũ cấp. Cố Tuyết có 3 người con gái là cụ Bùi Thị Chính (Chôm), cụ Phan Thị Hiên và cụ (NĐ_Phan Thị Dung). Năm 1965 cố Tuyết chết không để lại di chúc. Ngày 07/8/1969 ba chị em cụ lập Văn bản thỏa thuận đồng ý cho cụ được thừa hưởng nhà đất nêu trên. Khi còn sống, năm 1959 cố Tuyết cho vợ chồng cụ Châu Văn Uẩn, cụ Tô Niên ở nhờ căn nhà trên, việc cho ở nhờ không làm giấy tờ. Năm 1980 cụ Uẩn chết, tháng 8/1993 cụ Tô Niên chết. Hiện nay căn nhà do ông BĐ_Phan Văn Quý (là con nuôi của vợ chồng cụ Tô Niên) quản lý, sử dụng nên cụ khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Quý trả nhà và cụ đồng ý thanh toán chi phí xây dựng cho ông BĐ_Quý.
578/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 877
- 15
Trong đơn khởi kiện đề ngày 10/02/2006, đơn đính chính ngày 24/5/2006, biên bản hoà giải ngày 27/4/2006, ngày 17/5/2006 và tại phiên tòa nguyên đơn là NĐ_Ngân hàng Công thương Thanh Minh trình bày giữa nguyên đơn và bị đơn là BĐ_Công ty TNHH TM-DV vận tải Hà Hải có giao kết các Hợp đồng tín dụng số 03040759 ngày 26/8/2003, số 03040757 ngày 25/8/2003 và số 03041204 ngày 24/12/2003. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết chấm dứt hợp đồng trước thời hạn đồng thời buộc bị đơn thanh toán số tiền phát sinh từ Hợp đồng tín dụng số 03040759 ngày 26/8/2003 là 984.255.750 đồng, trong đó: Nợ gốc: 864.000.000 đồng Nợ lãi quá hạn: 120.255.750 đồng (tạm tính đến ngày 15/11/2006)