03/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1881
- 50
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 30-10-2009 và trong quá trình tố tụng, ông Lâm Thành Gia và bà Nguyễn Thị Hồng Thắm, là đại diện theo ủy quyền của ông Gia trình bày: Ngày 15-3-2006, ông Phạm Hồng Thanh và bà Nguyễn Thị Lập ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ông Gia toàn bộ nhà, đất tại số 21 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000 lượng vàng SJC. Sau khi ký kết hợp đồng, ông Gia đã trả cho ông Thanh, bà Lập 100 lượng vàng SJC, 500.000.000đ (tương đương với 44,24 lượng vàng SJC) và 2.000 USD, việc giao nhận vàng có chữ ký của ông Thanh. Ông Thanh, bà Lập đã sử dụng số tiền này để nộp tiền mua căn nhà số 21 Phùng Khắc Khoan của nhà nước theo Nghị định số 61/CP. Sau đó, ông Thanh, bà Lập đã không tiếp tục thực hiện hợp đồng bán nhà cho ông Gia.
147/2013/DS-GDT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 639
- 10
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung
Theo đơn khởi kiện ngày 20-8-2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Đức Anh (do ông Võ Thanh Tùng đại diện) trình bày: Năm 1975, ông chung sống với bà Lã Thị Bích Liên, ngày 5-12-1976 ông và bà Liên đăng ký kết hôn. Năm 1979, vợ chồng ông mua căn nhà số 526 An Dương Vương, phường 9, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh của cụ Tiêu Mộc. Do không có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh nên ông để bà Liên đứng tên và để giảm thuế hai bên không lập hợp đồng mua bán mà ngày 07-6-1979 cụ Tiêu Mộc lập “Giấy ủy quyền” cho bà Liên căn nhà trên. Ngày 29-8-1979, Sở Quản lý nhà đất thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép cho nhà số 926/GP-SNĐ.
147/2013/DS-GDT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2092
- 55
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
Theo đơn khởi kiện ngày 20-8-2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Đức Anh (do ông Võ Thanh Tùng đại diện) trình bày: Năm 1975, ông chung sống với bà Lã Thị Bích Liên, ngày 5-12-1976 ông và bà Liên đăng ký kết hôn. Năm 1979, vợ chồng ông mua căn nhà số 526 An Dương Vương, phường 9, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh của cụ Tiêu Mộc. Do không có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh nên ông để bà Liên đứng tên và để giảm thuế hai bên không lập hợp đồng mua bán mà ngày 07-6-1979 cụ Tiêu Mộc lập “Giấy ủy quyền” cho bà Liên căn nhà trên. Ngày 29-8-1979, Sở Quản lý nhà đất thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép cho nhà số 926/GP-SNĐ.
143/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2301
- 41
Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Ngày 15/5/2008, bà Văn Anh Muội ký hợp đồng tặng cho bà Văn Anh Kim (là chị gái của bà Muội) nhà, đất tại số 04 Lê Văn Hưu, phường Bến Nghé, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là nhà số 04 Lê Văn Hưu), hợp đồng được công chứng tại Phòng Công chứng số 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do bà Muội tặng cho bà Kim nhà này vì thời điểm đó bà Muội bị bệnh nặng, bác sĩ chẩn đoán là khó có thể sống được, bà Muội không có chồng con; khi đó, bà Kim từ Canada về nói với bà Muội tặng cho bà Kim nhà để phòng ngừa rủi ro, nếu bà Muội không qua khỏi bạo bệnh thì có người đứng ra lo thủ tục giấy tờ; bà Kim chỉ quản lý giùm và hứa không chuyển nhượng cho người khác, nếu bà Muội qua khỏi thì hai bên huỷ hợp đồng tặng cho. Do tin tưởng bà Kim nên bà Muội đã ký kết hợp đồng tặng cho nhà số 04 Lê Văn Hưu cho bà Kim. Khi ký hợp đồng tinh thần bà Muội không minh mẫn. Mục đích việc tặng cho nhà số 04 Lê Văn Hưu là nếu bà Muội chết thì căn nhà sẽ được chia cho một vài anh chị em. Khi ông Nguyễn Thanh Bình (là chồng của bà Kim) không cho bà Muội ờ nhà số 04 Lê Văn Hưu thì bà Muội mới biết bà Kim đã được sang tên quyền sở hữu nhà.
131/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2053
- 38
Về xác định di sản: Các đương sự thừa nhận cố Khuê, cố Hiến chết để lại 7040m2 đất đã có Bằng khoán điền thổ số 152 ngày 12/9/1937 do cố Khuê đứng tên, trên đất khi giao cho cụ Cử quản lý có cây lâu năm do hai cố để lại. Sau khi hai cố chết, những người con khác của hai cố đã quản lý đất và cây, đến năm 1962 mới giao cho cụ Cử quản lý, năm 1972 cụ Cử mới làm nhà ở trên đất. Cụ Cử cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai, không có giấy tờ gì thể hiện việc được các anh chị cho hưởng riêng tài sản này. Theo quy định tại Điều 247 Bộ luật dân sự về việc xác lập quyền sở hữu bất động sản theo thời hiệu thì tính đến thời điểm các nguyên đơn khởi kiện năm 1988 thì cụ Cử chưa trực tiếp sử dụng đất tranh chấp được 30 năm, nên không có cơ sở xác định đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cụ Cử như Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định là có căn cứ. Nội dung kháng nghị cho rằng đất tranh chấp không còn là di sản của cố Khuê, cố Hiến để lại là không có cơ sở chấp nhận.