cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

30/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 436
  • 11

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

28-01-2013
TAND cấp huyện

Ngày 24/6/2010, NĐ_Ngân hàng TMCP Thanh An chi nhánh Tân Bình đã ký hợp đồng tín dụng số 037.10.00112 theo đó NĐ_Ngân hàng TMCP Thanh An cho bà BĐ_Đặng Thị Hương Tiên vay số tiền là 1.000.000.000 (một tỷ đồng), thời hạn vay là 144 tháng (12 năm) kể từ ngày 25 tháng 6 năm 2010, lãi suất vay 1.40%/tháng, áp dụng cố định 01 tháng đầu tiên, những tháng tiếp theo áp dụng lãi suất cho vay bằng lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng+ biên độ 0,442%/tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, tiền nợ gốc được trả thành nhiều kỳ gồm 114 kỳ và trả được thực hiện tháng đầu tiên của kỳ, mục đích vay để thanh toán tiền mua nhà.


17/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 389
  • 7

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

15-09-2011

Ngôi nhà nằm trên diện tích 281m2 đất thuộc thửa số 145, tờ bản đồ số 4 (bản đồ năm 1994) tại xóm Bơ, xã TL, huyện TT, thành phố HN (BL 7) hiện nay do anh BĐ_Nguyễn Tiến Kiên đang quản lý, có nguồn gốc của cụ Nguyễn Tiến Chưng và cụ Nguyễn Thị Ếch. Cụ Chưng và cụ Ếch sinh được một người con chung là bà NĐ_Nguyễn Thị Nga. Năm 1937 cụ Ếch chết, không để lại di chúc. Sau đó, cụ Chưng kết hôn với cụ Nguyễn Thị Hoè và sinh được một người con chung là bà NĐ_Nguyễn Thị Nhi; ngoài ra, cụ Hoè còn có hai người con riêng là bà LQ_Nguyễn Thị Sa và bà LQ_Nguyễn Thị Hạ (con chồng trước của cụ Hoè). Năm 1954 cụ Chưng chết, không để lại di chúc. Ngày 01/7/1956, cụ Hoè được Uỷ ban hành chính tỉnh Hà Đông cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất nhưng hỉện nay giấy chứng nhận này đã bị thất lạc nên không nộp được cho Toà án (BL 154). Cụ Hoè quản lý, sử dụng nhà đất đến năm 1992, sau đó do già yếu nên cụ Hoè vào ở cùng con gái là bà LQ_Sa và đã nhờ ông Tỵ (là cháu cụ Chưng) ở liền kề trông nom, quản lý nhà, đất và thu hoạch hoa màu. Năm 1993 giữa cụ Hòe và ông Tỵ đã xảy ra tranh chấp, cụ Hoè làm đơn ra Uỷ ban nhân dân xã TL đòi lại thửa đất trên nên ông Tỵ không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1995 cụ Hoè chết không để lại di chúc.


17/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 477
  • 4

Yêu cầu chia thừa kế

21-04-2011

Cụ Hoàng Bân và cụ Nguyễn Thị Thảo có 03 người con chung là ông NĐ_Hoàng Bá Nhiên, bà LQ_Hoàng Thị Thanh (hiện cư trú ở Mỹ) và bà LQ_Hoàng Thị Sa. Trước khi cụ Bân lấy cụ Thảo, cụ Bân có một người con riêng là bà BĐ_Hoàng Thị Xiên và bà BĐ_Xiên được cụ Bân, cụ Thảo nuôi dưỡng từ nhỏ. Cụ Bân và cụ Thảo tạo lập được khối tài sản chung là căn nhà số 129F/138/134 BVĐ, phường 6, quận X, thành phố HCM. Ngày 05/2/1980, cụ Bân chết. Sau đó, cụ Thảo đã tách căn nhà trên thành 02 căn nhà mang số 129F/138/134 (do bà BĐ_Xiên quản lý, sử dụng) và số 129F/138/136 (do ông NĐ_Nhiên ký giấy bán cho bà LQ_Sa và có chia tiền cho bà BĐ_Xiên). Ngày 06/7/1998, cụ Thảo chết không để lại di chúc. Nay ông NĐ_Nhiên khởi kiện yêu cầu chia thừa kế căn nhà số 129F/138/134 theo quy định của pháp luật.


17/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 392
  • 3

Tranh chấp thừa kế

21-04-2011

Cụ Hoàng Bân và cụ Nguyễn Thị Thảo có 03 người con chung là ông NĐ_Hoàng Bá Nhiên, bà LQ_Hoàng Thị Thanh (hiện cư trú ở Mỹ) và bà LQ_Hoàng Thị Sa. Trước khi cụ Bân lấy cụ Thảo, cụ Bân có một người con riêng là bà BĐ_Hoàng Thị Xiên và bà BĐ_Xiên được cụ Bân, cụ Thảo nuôi dưỡng từ nhỏ. Cụ Bân và cụ Thảo tạo lập được khối tài sản chung là căn nhà số 129F/138/134 BVĐ, phường 6, quận X, thành phố HCM. Ngày 05/2/1980, cụ Bân chết. Sau đó, cụ Thảo đã tách căn nhà trên thành 02 căn nhà mang số 129F/138/134 (do bà BĐ_Xiên quản lý, sử dụng) và số 129F/138/136 (do ông NĐ_Nhiên ký giấy bán cho bà LQ_Sa và có chia tiền cho bà BĐ_Xiên). Ngày 06/7/1998, cụ Thảo chết không để lại di chúc. Nay ông NĐ_Nhiên khởi kiện yêu cầu chia thừa kế căn nhà số 129F/138/134 theo quy định của pháp luật.


05/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1170
  • 10

Yêu cầu chia thừa kế

18-03-2011

Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2006 và lời khai của ông Phạm Văn Nghị (đại diện cho bà NĐ_Liên) trong quá trình tố tụng thì: cha mẹ bà NĐ_Liên là cụ Bùi Trọng Minh (chết năm 1973 không để lại di chúc) và cụ Nguyễn Thị Nguyệt (chết năm 1997 không để lại di chúc) sinh được 05 người con: ông BĐ_Bùi Trọng Sinh, bà NĐ_Bùi Thị Liên, bà BĐ_Bùi Thị Linh, ông BĐ_Bùi Trọng Thắng và ông Bùi Trọng Thủy (ông Thủy chết năm 2005). Khi còn sống, cụ Minh, cụ Nguyệt tạo lập được khối tài sản gồm: 01 lô đất 1,9ha tại ấp AL, xã BH nay là khối 8, thị trấn BH, huyện KB, ĐL (cụ Nguyệt đã bán 4000m2 đất cho ông Ngô Đình Chi); 01 nhà và đất tọa lạc tại khu vực chợ Phú Cường, thị trấn BH (ông BĐ_Bùi Trọng Sinh đã bán). Sau khi cụ Nguyệt chết thì ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng, ông Thủy, bà BĐ_Linh đã tự ý phân chia 1,5ha đất mà không có sự đồng ý của bà NĐ_Liên. Nay, bà NĐ_Liên yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cha mẹ theo quy định pháp luật. Riêng phần đất mà ông Thủy đã đựợc chia trước đây trong lô đất 1,5ha nếu ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng và bà BĐ_Linh thống nhất không yêu cầu chia thì bà NĐ_Liên đồng ý không tranh chấp và chỉ yêu cầu chia phần đất còn lại. Ngoài ra, bà NĐ_Liên còn gửi về cho bà BĐ_Linh số tiền 130.000.000đ để bà BĐ_Linh trả nợ cho cụ Nguyệt nên bà NĐ_Liên yêu cầu được hoàn trả lại số tiền này.