01/2008/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 562
- 10
Tranh chấp hợp đồng thi công san lấp mặt bằng
Ngày 01/01/2002 bên A có ký hợp đồng thi công san lấp mặt bằng với BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn An Sơn (gọi tắt là bên B) do Giám đốc Trần Công Hoàng Quốc Trang ký. Hợp đồng thứ nhất số 7A/HĐKT có nội dung: bên B thuê bên A thi công san lấp nền hạ cụm công nghiệp nhựa thuộc Khu công nghiệp Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An với các hạng mục: Khi hoang, nạo vét, dọn dẹp mặt bằng. San lấp nền hạ bao gồm(đào lắp, vận chuyển, lu nền, đầm nén theo kỹ thuật thiết kế) khối lượng thi công tạm tính là 62.330m2; đơn giá 100.000 đ/m2; thành tiền là 6.233.000.000 đồng. Hợp đồng có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 đến 30/6/2004. Thực hiện hợp đồng này, bên B đã tạm ứng nhiều lần cho bên A tổng cộng là 4.100.000.000 đồng.
43/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 814
- 33
Sinh thời cụ Thơ và cụ Cúc tạo lập được khối tài sản bao gồm: căn nhà trên 4.000m2 đất tại số 60 đường LVN, khóm Bình Long 3, phường Mỹ Khánh, thành phố LX, tỉnh AG cùng các vật dụng trong gia đình bao gồm: 01 tủ thờ, 02 đi văng, bàn ghế... Hiện tại, ông BĐ_Kỳ, ông BĐ_Thứ và bà cùng quản lý sử dụng căn nhà. Bà BĐ_Bông Quyên sử dụng nhà bếp và chiếm dụng đất của cha mẹ để xây dựng 01 căn nhà và làm hầm nuôi cá. Bà LQ_Như Quyên cũng cất 01 căn nhà trên đất của cha mẹ. Sau khi bà LQ_Như Quyên, chết (năm 2003) thì chị Trần Lệ Nga (con của bà LQ_Như Quyên) sử dụng nhà này.
59/2012/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1694
- 44
Cụ Tòng, cụ Dân tạo lập được nhà 62 NCT, phường 3, TH, PY từ năm 1957, cụ Tòng chết không để lại di chúc. Ngày 26/4/1994, cụ Dân lập di chúc có xác nhận của ủy ban nhân dân phường 3 cùng ngày, phân chia cho bà hưởng thừa kế phần nhà trước 6m X 6,8m, giao phần nhà sau 6m X 7,8m cho anh LQ_Võ Văn Thân (con ông BĐ_Vân) sở hữu. Di chúc do cụ Dân làm và tự đem đến ủy ban nhân dân phường 3 xác nhận, sau 1 - 2 tháng thì cụ Dân đưa di chúc và giấy tờ về nhà đất cho bà giữ, không đưa cho anh LQ_Thân bản nào. Bà lập gia đình năm 1969, ở chung cùng cụ Dân và ông BĐ_Vân tại nhà đất tranh chấp đền năm 1982 bà mua nhà ở riêng tại nhà đang ở hiện nay. Năm 1975 cụ Dân mua cho bà LQ_Giang nhà 20 PĐP, không cho bà và ông BĐ_Vân tài sản nào. Ông BĐ_Vân ở cùng cụ Dân đến năm 1987 thì cụ Dân ngăn nhà trên ở riêng, ăn riêng, còn ông BĐ_Vân ở nhà dưới. Trước đây do ông BĐ_Vân hỗn láo, đối xử với mẹ không ra gì, mẹ bà đã phải gửi đem ra ủy ban nhân dân phường 3 và ủy ban nhân dân phường 3 đã phải giải quyết 3 lần vào năm 1986. Cụ Dân còn viết nhiều nhật ký về việc vợ chồng ông BĐ_Vân đối xử tệ bạc.
43/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 434
- 13
Sinh thời cụ Thơ và cụ Cúc tạo lập được khối tài sản bao gồm: căn nhà trên 4.000m2 đất tại số 60 đường LVN, khóm Bình Long 3, phường Mỹ Khánh, thành phố LX, tỉnh AG cùng các vật dụng trong gia đình bao gồm: 01 tủ thờ, 02 đi văng, bàn ghế... Hiện tại, ông BĐ_Kỳ, ông BĐ_Thứ và bà cùng quản lý sử dụng căn nhà. Bà BĐ_Bông Quyên sử dụng nhà bếp và chiếm dụng đất của cha mẹ để xây dựng 01 căn nhà và làm hầm nuôi cá. Bà LQ_Như Quyên cũng cất 01 căn nhà trên đất của cha mẹ. Sau khi bà LQ_Như Quyên, chết (năm 2003) thì chị Trần Lệ Nga (con của bà LQ_Như Quyên) sử dụng nhà này.
320/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 377
- 24
Năm 1988, ông Thụ chết không để lại di chúc. Năm 1992, sau khi cải táng cho ông Thụ xong thì họ tộc đã yêu cầu bà về sống tại nhà đất của ông Thụ để nhang khói cho ông Thụ nên mẹ con bà đã quay lại thôn Khách và ở từ đó đến nay. Sau khi ông Thụ chết, bà BĐ_Ánh đã bán nhà đất ở HN và về sống tại nhà đất ở thôn Khách nhưng đến năm 1992 thì bỏ đi đâu không rõ. Khi lấy ông Thụ bà không nghe nói gì về việc ông Thụ nhận anh Lộc làm con nuôi nhưng năm 1981 anh Lộc dẫn vợ con về sống tại nhà đất của ông Thụ và nói là con nuôi của ông Thụ bà BĐ_Ánh. Khoảng 2 năm sau thi gia đình anh Lộc đi xây dựng kinh tế mới, nhà và đất lại do mẹ con bà quản lý.