757/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2157
- 40
Nguồn gốc nhà 16G PKK, phường ĐK, Quận X thuộc quyền sở hữu của ông Võ Văn Dậm (chết năm 1984) và bà Nguyễn Thị Thơm (chết năm 1989). Sau khi ông Dậm và bà Thơm chết, bà Võ Thị Hoa là con đại diện khai trình theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1630/SXD do Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp ngày 16/9/2003. Sau đó, tháng 12/2003 bà Võ Thị Hoa lập Hợp đồng tặng cho nhà có số công chứng 036375/HĐ-TCN tại LQ_Phòng công chứng số 1 – Thành phố HCM nội dung bà Hoa tặng cho quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 16G PKK, phường ĐK, Quận X, Tp. HCM cho ông NĐ_Võ Văn Tiểu và bà NĐ_Phạm Tuyết Ngảnh. Sau khi được tặng cho căn nhà trên, ông NĐ_Tiểu và bà NĐ_Ngảnh đã hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với căn nhà này và được trung tâm thông tin tài nguyên môi trường và đăng ký nhà đất Tp. HCM xác nhận quyền sở hữu ngày 24/12/2003.
17/2013/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 2204
- 80
Ngày 30/8/2010 NĐ_Ngân hàng TMCP Quốc Thanh Tp. HCM (sau đây gọi tắt là NĐ_Quốc Thanh Bank) và BĐ_Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây lắp Thịnh Toàn (gọi tắt là BĐ_Thịnh Toàn) có ký kết hợp đồng tín dụng hạn mức số 148/10/ HĐTDHM/NH với hạn mức tín dụng là 100.000.000.000 đồng để bổ sung vốn kinh doanh, thời hạn trả nợ sẽ được ghi nhận cụ thể tại các khế ước nhận nợ. Ngày 21/4/2011 NĐ_Quốc Thanh Bank và BĐ_Thịnh Toàn tiếp tục ký kết phụ lục hợp đồng tín dụng hạn mức số 01/PL-HĐTD (thuộc hợp đồng tín dụng Hạn mức số 148/10/HĐTDHM/NH) để bổ sung một số nội dung tại hợp đồng tín dụng 148/10/ HĐTDHM/NH ngày 30/8/2010. Để thực hiện hợp đồng, giữa NĐ_Quốc Thanh Bank và BĐ_Thịnh Toàn ký kết Khế ước nhận nợ số 148/10/KUNN 03 ngày 26/4/2011 để nhận số tiền vay: 9.823.677.532 đồng, thời hạn vay là 12 tháng; và Khế ước nhận nợ số 148/10/KUNN 04 ngày 12/5/2011 để nhận số tiền vay là 4.780.930.485 đồng, thời hạn vay là 12 tháng.
18/2012/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 5257
- 177
Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm khác
Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/7/2010, tại các bản tự khai, biên bản hòa giải cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ. Nguyên đơn bà NĐ_Trần Hồng Hữu có ông Nguyễn Trường Giang đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 03/7/2007 bà NĐ_Hữu có mua bảo hiểm của BĐ_Công ty Bảo hiểm Thanh Tân cho tàu đánh cá mang số hiệu ST-90027 TS theo giấy chứng nhận bảo hiểm tàu, thuyền cá số GM0001/07N27103 ngày 03/7/2007 với tổng giá trị bảo hiểm cho thân tàu là 500.000.000 đồng và ngư cụ là 200.000.000 đồng. Ngày 06/11/2007 thì tàu gặp sự cố do ảnh hưởng của cơn bảo số 6 nên tàu chìm vào khoảng 20 giờ 50 phút cùng ngày ở tọa độ 06o00’ 558 ‘’E.
04/2013/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1187
- 4
Tranh chấp hợp đồng mua bán suất ăn
NĐ_Công Ty Cổ Phần Suất Ăn Hàng Không Vĩnh Khoa (sau đây gọi tắt là NĐ_VDS) và BĐ_Cty Cổ Phần Hàng Không Minh Anh (sau đây gọi tắt là BĐ_MAS) có kí Hợp đồng mua bán suất ăn số 01-2008/NĐ_VDS-VP ngày 19/11/2008. Theo đó, NĐ_VDS có nghĩa vụ cung cấp suất ăn hàng không cho BĐ_MAS. Quá trình thực hiện hợp đồng, NĐ_VDS đã cung cấp đầy đủ số lượng, chất lượng suất ăn hàng không cho BĐ_MAS. Tuy nhiên, BĐ_MAS đã không thực hiện đầy đủ về việc thanh toán. Hiện BĐ_MAS còn nợ NĐ_VDS 1.203.684.953 đồng theo biên bản xác nhận nợ ngày 31/12/2009. Ngày 05/01/2010, BĐ_MAS có công văn số 156/BĐ_MASHAN xin gia hạn nợ đến ngày 31/5/2010 và NĐ_VDS đồng ý gia hạn nợ. Nhưng từ đó đến nay, BĐ_MAS không thực hiện trả nợ.
18/2012/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1773
- 51
Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm thân tàu
Ngày 03/7/2007 bà NĐ_Duyên có mua bảo hiểm của BĐ_Công ty Cổ phần Bảo hiểm Tân Sương cho tàu đánh cá mang số hiệu ST-90027 TS theo giấy chứng nhận bảo hiểm tàu, thuyền cá số GM0001/07N27103 ngày 03/7/2007 với tổng giá trị bảo hiểm cho thân tàu là 500.000.000 đồng và ngư cụ là 200.000.000 đồng. Ngày 06/11/2007 thì tàu gặp sự cố do ảnh hưởng của cơn bảo số 6 nên tàu chìm vào khoảng 20 giờ 50 phút cùng ngày ở tọa độ 06o00’ 558 ‘’E. Tàu cá ST-90027 TS được kiểm tra kỹ thuật hàng năm, trước khi BĐ_Công ty Cổ phần Bảo hiểm Tân Sương chi nhánh CT bán bảo hiểm cũng đã thẩm định, nhưng khi tai nạn xảy ra thì công ty Bảo hiểm đã thuê LQ_Công ty Cổ Phần Giám định hàng hải Toàn Bảo giám định khi tàu không được trục vớt lên để tìm nguyên nhân là không có căn cứ để đi đến kết luận nguyên nhân tàu chìm là do bị phá nước từ dưới đáy hầm tàu. Bà NĐ_Duyên có yêu cầu BĐ_Công ty Cổ phần Bảo hiểm Tân Sương cho trục vớt tàu lên để giám định nhưng BĐ_Công ty Cổ phần Bảo hiểm Tân Sương không đồng ý.