31/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 623
- 15
Ngày 26/11/2001, NĐ_Ngân hàng Ánh Dương và bà BĐ_Cao Thị Hoa ký Hợp đồng tín dụng số 09261101/TDH có nội dung; NĐ_Ngân hàng Ánh Dương cho bà BĐ_Cao Thị Hoa vay 1.600.000.000 đồng để mua căn nhà số 1045 NT, phường 14, quận B, thành phố HCM; với thời hạn vay là 84 tháng, kể từ ngày 26/11/2001 đến 26/11/2008; lãi suất của 06 tháng đầu (từ ngày 26/11/2001 đến 26/5/2002) là 0,9%/tháng; kể từ ngày 26/5/2002, lãi suất cho vay được xác định lại 06 tháng một lần, tính theo công thức sau: lãi suất cho vay = lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng, loại lãi suất tính theo tháng của NĐ_Ngân hàng Ánh Dương tại thời điểm thông báo lãi suất + 0,35%/tháng, lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn.
437/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1138
- 27
Tại đơn khởi kiện ngày 2/3/2005 và quá trình giải quyết đại diện nguyên đơn là NĐ_Lương Ngọc Trà, trình bày: năm 1975, cụ Trịnh Thị Son là mẹ ông đã chia cho ông 3.275m2 đất, đồng thời chia cho vợ chồng ông BĐ_Bùi Tâm Quang một phần đất giáp đất ông được chia. Trong quá trình sử dụng ông BĐ_Quang đã lấn đất của ông là 646,1m2, nên phần đất của ông hiện chỉ còn 2.610m2; vì vậy ông khởi kiện đòi ông BĐ_Quang trả ông 646,1m2 đất.
29/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 5031
- 165
Tại đơn khởi kiện đề tháng 9/2004, được sửa đổi ngày 14/4/2005 và các lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng, đại diện NĐ_Công ty GERNAI trình bày: Nhãn hiệu thuốc tránh thai khẩn cấp POSTINOR của NĐ_Công ty GERNAI đã được đăng ký quốc tế từ năm 1978 theo Thỏa ước Madrid và sản phẩm đã được giới thiệu tại thị trường Việt Nam từ năm 1992; đến năm 1995 thì được Cục quản lý Dược Bộ Y tế cấp Giấy phép đăng ký số VN 0690-95. Đầu năm 2003, NĐ_Công ty GERNAI đã thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam và chính thức đăng ký nhãn hiệu thuốc POSTINOR, được Cục sở hữu công nghiệp Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam xác nhận tên thuốc POSTINOR đã đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid và được gia hạn lại từ năm 1998. Từ đó, doanh thu của NĐ_Công ty GERNAI trên thị trường Việt Nam về loại sản phẩm này năm sau luôn cao hơn năm trước.
29/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4475
- 169
Đòi bồi thường thiệt hại do hành vị cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp
Tại đơn khởi kiện đề tháng 9/2004, được sửa đổi ngày 14/4/2005 và các lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng, đại diện NĐ_Công ty GERNAI trình bày: Nhãn hiệu thuốc tránh thai khẩn cấp POSTINOR của NĐ_Công ty GERNAI đã được đăng ký quốc tế từ năm 1978 theo Thỏa ước Madrid và sản phẩm đã được giới thiệu tại thị trường Việt Nam từ năm 1992; đến năm 1995 thì được Cục quản lý Dược Bộ Y tế cấp Giấy phép đăng ký số VN 0690-95. Đầu năm 2003, NĐ_Công ty GERNAI đã thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam và chính thức đăng ký nhãn hiệu thuốc POSTINOR, được Cục sở hữu công nghiệp Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam xác nhận tên thuốc POSTINOR đã đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid và được gia hạn lại từ năm 1998. Từ đó, doanh thu của NĐ_Công ty GERNAI trên thị trường Việt Nam về loại sản phẩm này năm sau luôn cao hơn năm trước.
23/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 397
- 2
Tại đơn khởi kiện năm 2001 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là ông NĐ_Đặng Chí Lân trình bày: Vợ chồng cụ Đặng Văn Thiệp (chết năm 1967), cụ Nguyễn Thị Vốn (chết năm 1994) có 9 người con chung là các ông bà LQ_Nguyễn Thị Linh, NĐ_Đặng Chí Lân, LQ_Đặng Chí Tân, LQ_Đặng Thị Cầm, BĐ_Đặng Thị Uyên, LQ_Đặng Thị Mỹ Nga, Đặng Văn Nhơn (ông Nhơn bị tâm thần, đã giết chết mẹ vợ cùng con gái, sau đó bỏ đi từ 1988, có vợ là LQ_Đặng Thị Nhân và con là LQ_Đặng Thị Giang), LQ_Đặng Thị Mỹ Chi, LQ_Đặng Văn Thành. Về tài sản vợ chồng cụ Thiệp tạo lập được căn nhà số 15 đường QT, ấp Lộc Thành, thị trấn TB (hiện do ông LQ_Thành quản lý sử dụng) và diện tích 6.930 m2 (số đo thực tế 6.270,5 m2) đất vườn tại ấp Phước Đức, xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN (hiện vợ chồng bà BĐ_Uyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 3.400 m2, phần còn lại do ông LQ_Tân sử dụng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ông NĐ_Lân yêu cầu chia thừa kế toàn bộ diện tích đất nêu trên cho các thừa kế của hai cụ; riêng căn nhà số 15 QT để cho ông LQ_Thành quản lý làm nơi thờ cúng, không yêu cầu chia.