23/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 432
- 1
Tại đơn khởi kiện năm 2001 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là ông NĐ_Đặng Chí Lân trình bày: Vợ chồng cụ Đặng Văn Thiệp (chết năm 1967), cụ Nguyễn Thị Vốn (chết năm 1994) có 9 người con chung là các ông bà LQ_Nguyễn Thị Linh, NĐ_Đặng Chí Lân, LQ_Đặng Chí Tân, LQ_Đặng Thị Cầm, BĐ_Đặng Thị Uyên, LQ_Đặng Thị Mỹ Nga, Đặng Văn Nhơn (ông Nhơn bị tâm thần, đã giết chết mẹ vợ cùng con gái, sau đó bỏ đi từ 1988, có vợ là LQ_Đặng Thị Nhân và con là LQ_Đặng Thị Giang), LQ_Đặng Thị Mỹ Chi, LQ_Đặng Văn Thành. Về tài sản vợ chồng cụ Thiệp tạo lập được căn nhà số 15 đường QT, ấp Lộc Thành, thị trấn TB (hiện do ông LQ_Thành quản lý sử dụng) và diện tích 6.930 m2 (số đo thực tế 6.270,5 m2) đất vườn tại ấp Phước Đức, xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN (hiện vợ chồng bà BĐ_Uyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 3.400 m2, phần còn lại do ông LQ_Tân sử dụng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ông NĐ_Lân yêu cầu chia thừa kế toàn bộ diện tích đất nêu trên cho các thừa kế của hai cụ; riêng căn nhà số 15 QT để cho ông LQ_Thành quản lý làm nơi thờ cúng, không yêu cầu chia.
21/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1046
- 14
Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2004 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là ông Huỳnh Thế Vinh trình bày: ông là Việt Kiều từ Mỹ về nước và có chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Trang từ năm (1993) nhưng không đăng ký kết hôn; quá trình chung sống, ông và bà Trang có 03 người con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Gia Bảo sinh ngày: 24/4/1996, cháu Nguyễn Huỳnh Gia Phúc và cháu Nguyễn Huỳnh Gia Lộc song sinh ngày: 13/3/1997. Do mâu thuẫn trầm trọng trong cuộc sống, nên ông Vinh đề nghị Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân, về tài sản chung và nợ chung giữa ông và bà Trang, về con chung ông Vinh đồng ý để bà Trang nuôi dưỡng, ông sẽ cấp dưỡng nuôi con.
20/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3734
- 66
Tranh chấp sở hữu chung hỗn hợp
Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/4/2005 và trong quá trình tham gia tố tụng, ông NĐ_Đậu Ngọc Luân trình bày: Ngày 04/3/2003, ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng đã ký kết hợp đồng liên doanh liên kết số 15/2003. Theo hợp đồng, ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng cùng góp vốn để hợp tác với LQ_Công ty Hwan Tinan thực hiện việc khai thác và nhập khẩu gỗ từ Campuchia về Việt Nam tiêu thụ hoặc tái xuất khẩu, thời hạn kết thúc hợp đồng là ngày 31/12/2003. Cùng ngày 04/3/2003, ông đã góp cho BĐ_Công ty Thanh Hồng 2.000.000.000 đồng. Sau khi góp vốn, ông đã cùng bà Nga sang Campuchia để tìm hiểu về khả năng thực hiện việc liên doanh liên kết. Sau đó, BĐ_Công ty Thanh Hồng và LQ_Công ty Hwan Tinan ký kết hợp đồng vào thời điểm nào thì ông không được biết, nhưng khi hết thời hạn thỏa thuận giữa ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng thì không thấy BĐ_Công ty Thanh Hồng nhập khẩu gỗ về Việt Nam. Ông đã nhiều lần yêu cầu BĐ_Công ty Thanh Hồng hoàn trả lại cho ông phần vốn ông đã góp, nhưng BĐ_Công ty Thanh Hồng không trả.
18/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 532
- 5
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 22/12/2001 nguyên đơn là bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Thư có yêu cầu như sau: BĐ_Công ty Thạch Vinh phải thực hiện thỏa thuận tại biên bản thanh lý hợp đồng, hoàn tất giấy tờ pháp lý 08 lô đất là: Lô A10 + A11 đứng tên bà Nguyễn Thi Minh Hoa; lô A12 + A13 đứng tên LQ_Nguyễn Văn Niên; lô A20 + A21 đứng tên LQ_Nguyễn Minh Tân; lô A22 + A23 đứng tên LQ_Chu Minh Triết. Ngoài ra, trong quá trình chuyển nhượng lô đất A19 cho bà Đỗ Phương Hà và lô đất C7, C8 cho bà Nguyễn Thị Thái Hằng, bà đã hoàn lại tiền mua đất cho bà Hà và bà Hằng, do vậy 3 lô đất trên nay là của bà, nên yêu cầu BĐ_Công ty Thạch Vinh phải làm thủ tục giấy tờ 03 lô đất trên đứng tên bà (NĐ_Thư).
17/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 417
- 5
Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/5/2002 và quá trình tố tụng bà NĐ_Nguyễn Thu Thanh trình bày: năm 1960 cụ Nguyễn Văn Dị (là cha của bà và ông BĐ_Ngân) mua 5000m2 đất tại ấp 4, xã MY, huyện BL, tỉnh LA để cất nhà ở, sau khi có chồng thì vợ chồng bà vẫn ở cùng cụ Dị. Năm 1978 cụ Dị cho bà cất nhà kế bên để ở. Năm 1981 cụ Dị vượt biên sang Mỹ để lại nhà trên 5000m2 đất thổ vườn cho bà quản lý, sử dụng còn nhà của bà làm bếp. Năm 1987, Ủy ban nhân dân xã MY mượn nhà của bà làm trường mẫu giáo một thời gian thì trả lại cho bà.