cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

13/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 592
  • 19

Đòi lại tiền đã nộp thuế

18-06-2009

Tại đơn khởi kiện ngày 20/9/2004 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Phạm Thị Thương (do bà Đỗ Thị Ngọc Mai đại diện theo ủy quyền) trình bày: Ông LQ_Gérard Laneal và bà LQ_Pierrette Laneal née Collin (gọi tắt là ông bà LQ_Laneal), đều có quốc tịch Pháp đến Việt Nam tìm cơ hội đầu tư và xin mở văn phòng đại diện Công ty của Pháp tại tỉnh KH. Để có phương tiện đi lại, ngày 06/01/2003 Ông Gérard đã mua của Công ty TNHH Sao Mai Anh một chiếc xe ô tô du lịch 7 chỗ hiệu Toyota, giá 21.000 USD, bao gồm cả thuế giá trị gia tăng (VAT). Do ông bà LQ_Laneal không đủ điều kiện đứng tên đăng ký xe, nên đã cho bà NĐ_Thương chiếc xe này, nhưng bà NĐ_Thương chưa có hộ khẩu thường trú tại NT và chưa có bằng lái ô tô nên không thể đăng ký xe. Bà NĐ_Thương, ông bà LQ_Laneal đã nhờ ông BĐ_Quảng Văn Thân - Giám đốc doanh nghiệp tư nhân thương mại và dịch vụ du lịch Hai An Tour (gọi tắt là DNTN R-V) đứng tên đăng ký xe và sang tên cho bà NĐ_Thương khi bà NĐ_Thương đủ điều kiện đăng ký xe (thỏa thuận này không lập giấy tờ).


222/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 516
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

12-06-2009

Theo đơn khởi kiện ngày 28/3/2007 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Trần Hồng Thức khai: Ngôi nhà mà ông đang sở hữu có nguồn gốc do cha mẹ ông mua của ông Nguyễn Văn Tâm và vợ là bà Trần Thị Lịch ngày 21/3/1983. Cha mẹ ông cho ông ngòi nhà này và ngay 30/9/1998 ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, diện tích nhà ở là 69,52m2 trên 73,10m2 đất thửa số 07 tờ bản đồ số 1K, đường 827, khóm 1, thị trấn TV Liền kề với đầu hồi nhà ông là nhà cùa ông BĐ_Huỳnh Văn Hà (ông BĐ_Hà là dượng rể của ông). Ranh giới giữa hai nhà lúc bấy giờ là tấm vách tường do ông BĐ_Hà xây dựng, ông sử dung nhờ vách tường của ông BĐ_Hà, còn đầu hồi nhà ông BĐ_Hà sử dụng nhờ phần không gian bên phần đất của nhà ông. Sở dĩ có việc dùng chung vách là do nhà của hai bên vốn là một ngôi nhà 3 căn của người chủ trước đây tên là Nguyễn Văn Sâm. Ông ngoại ông mua một căn cho dì ruột của ông tên Nguyễn Thị Anh. Đến năm 1972 bà Anh đã làm lại nhà mới cao hơn nên mái ngói phủ sang căn liền kê. Năm 1983 mẹ ông mới mua hai căn còn lại liền kề với nhà này đã thuộc quyền sở hữu của ông BĐ_Hà.


200/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 766
  • 5

Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất

21-05-2009

Thực hiện hợp đồng: Ngày 16/8/1996 ông BĐ_Lân đặt cọc 05 cây vàng SJC. Ngày 15/9/1996 ông BĐ_Lân thanh toán tiền đợt 2 là 24 cây vàng SJC (5.195.000 đ/cây) và 150.000.000 đồng. Sau khi thanh toán tiền đợt 2 thì ông BĐ_Lân không tiếp tục thực hiện hợp đồng và cũng không liên hệ với bà NĐ_Riêng, cuối năm 1998 -1999 bà NĐ_Riêng đã tìm địa chỉ và được biết ông BĐ_Lân đã đi nước ngoài.


197/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2828
  • 63

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-05-2009

Theo đơn khởi kiện ngày 17/11/2004 và các lời khai của bà NĐ_Lê Thị Xanh, trình bày: Bà và ông Võ Văn Buồl sinh được 6 người con là: LQ_Võ Văn Long, LQ_Võ Văn Lê, BĐ_Võ Văn Kiên, LQ_Võ Chanh Thắng (chết năm 2001, có chồng là anh Tôn Văn Gùi và 2 con là LQ_Tôn Thị Thùy Trâm và LQ_Tôn Văn Tài). Vợ chồng bá tạo lập được khối tài sản gồm là 228.052m2 đất nông nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Buồl năm 1997: 01 căn nhà vách lá, tại ấp Tà Nu; 01 nhà vách lá, mái tol tại Ô Tà Pét, xã KH; 01 máy cày MTZ 50, 4 máy bơm nước, 1 máy xăng bơm nước, 1 xe máy Trung Quốc. Trước đây ông bà đã thống nhất cho chị Ngô Thị Khoa (vợ anh LQ_Võ Văn Long) và 2 cháu ngoại là LQ_Tôn Văn Tài và LQ_Tôn Thị Thùy Trâm diện tích kênh mất khoảng 20.000m2 là một phần của các thửa 439, 466, còn lại 148.376 m2, trong đó anh BĐ_Kiên quản lý 94.984m2 trong đó có đất thổ cư trên có căn nhà đang ở; bà quản lý 53.390m2


93/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 945
  • 17

Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

07-04-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/4/2001 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông NĐ_Huỳnh Văn Tân trình bày: Năm 1999, được biết Ban dự án hỗ trợ y tế Quốc gia tỉnh BĐ có tổ chức đấu thầu thi công công trình Trung tâm y tế huyện AN nên ông đã làm đầy đủ các thủ tục tham gia đấu thầu. Do không có tư cách pháp nhân nên ông đã nhờ BĐ_Công ty TNHH Xây dựng Đình Phong (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty Đình Phong) có tư cách pháp nhân đứng ra đấu thầu và nhận thầu công trình sau đó giao lại cho ông thi công. Theo thỏa thuận ông là người trực tiếp thi công công trình, tự thuê nhân công, tự bỏ vốn và chịu trách nhiệm đối với chất lượng công trình… Khi chủ đầu tư chuyển tiền về tài khoản của Công ty thì ông phải nộp cho Công ty các khoản gồm (thuế GTGT: 10%; chi phí điều hành và thuế thu nhập doanh nghiệp: 3% giá trị công trình), số tiền còn lại Công ty sẽ thanh toán cho ông thông qua các phiếu chi của Công ty.