64/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 579
- 7
NĐ_Nguyễn Ngọc Phú trình bày: Vào năm 1984 ông mua căn nhà số 167 PTG, phường 2 thành phố MT có chiều rộng là 3,5m, chiều dài 35m, tổng diện tích 367,4m2, diện tích sử dụng là 252m2, lúc này chỉ có cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Đến năm 1995, ông NĐ_Phú xin làm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có tranh chấp. Năm 2004 Ban tư pháp phường 2 có mời hai bên ra hòa giải, ông NĐ_Phú vì muốn tình chòm xóm được vui vẻ nên có thương lượng đồng ý đưa cho chị BĐ_Thư 10 lượng vàng 24K để chị BĐ_Thư xây 1 cái gác và chị BĐ_Thư sẽ trả lại phần phía sau cho ông NĐ_Phú, căn nhà này ông mua của bà Lưu Chấn Định xây dựng trước khi nhà sau của chị BĐ_Thư xây dựng. Nhưng chị BĐ_Thư không đồng ý sự thương lượng đó. Nay ông yêu cầu chị BĐ_Thư trả lại phần đất nhà sau với diện tích là 10,2m2 khi án có hiệu lực, không đền bù khoản tiền nào.
01/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 862
- 21
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tại đơn kiện ngày 27/4/2002 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là chị NĐ_Nguyễn Thị Mai trình bày: Năm 1992 vợ chồng chị vay của ông BĐ_Nguyễn Phúc Vinh 120 kg thịt lợn móc hàm (tính thành tiền là 1.200.000 đồng) và 500.000 đồng; năm 1993 vay thêm 3.000.000 đồng nữa (tính lãi theo quy định của ngân hàng), cộng là 4.700.000 đồng; vợ chồng chị hẹn cuối năm 1993 sẽ trả. Cuối năm 1993, ông BĐ_Vinh đòi nợ, do không có tiền trả nợ nên anh NĐ_Bùi Văn Tài (chồng chị) đã thế chấp 6 thửa ruộng cho ông BĐ_Vinh để làm tin (nguồn gốc ruộng này của vợ chồng ông LQ_Quách Ngọc Kiên cho vợ chồng chị mượn canh tác). Năm 1995, chị lại vay thêm của bà BĐ_Trần Thị Lan (vợ ông BĐ_Vinh) 200.000 đồng. Như vậy, vợ chồng chị đã vay của vợ chồng ông BĐ_Vinh, bà BĐ_Lan số tiền là 4.900.000 đồng.
14/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 290
- 5
Theo đơn khởi kiện ngày 02/8/2005 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Sơn Chinh khai: Nhà đất của gia đình bà và nhà đất của gia đình ông BĐ_Phong liền kề. Nguồn gốc diện tích 116m2 đất thổ cư mà gia đình bà đang quản lý, sử dụng là do cha mẹ bà để lại, ngày 25/6/1997 bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn gốc nhà đất của ông BĐ_Phong là của bà Bùi Thị Thương. Năm 1984 bà Thương bán cho ông BĐ_Phong, năm 1987 ông BĐ_Phong xây thành nhà kiên cố. Căn cứ vào khế ước tá điền mà cha bà được cấp năm 1972 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà được cấp thì ranh đất giữa gia đình bà và gia đình ông BĐ_Phong là một đường thẳng, nay lại là đường gãy khúc là do ông BĐ_Phong xây nhà lấn sang một phần đất trống của gia đình bà là 0,23m x 7,3m = l,7m2; khi ông BĐ_Phong xây nhà bà đi vắng nên không biết, khi phát hiện thì ông BĐ_Phong thỏa thuận miệng là cho bà sử dụng phần kiến trúc xây dựng trên đất của bà, cụ thể là cho bà sử dụng chung bức tường nhà do ông BĐ_Phong xây dựng, nên hiện nay căn nhà của bà có phần tường chung với tường bên nhà ông BĐ_Phong.
559/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 398
- 10
Tại đơn xin ly hôn đề ngày 10/12/2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Lã Văn Quảng trình bày: Anh và chị Lê Thị Việt (tức Hà) kết hôn tự nguyện ngày 10/5/1986 tại Đại sứ quán Việt Nam ở Bungari. Quá trình chung sống sinh được 2 con chung là các cháu Lã Quang Tùng sinh ngày 15/6/1988, Lã Quang Lâm sinh ngày 09/3/1992; về tài sản chung có đồ dùng sinh hoạt và một số tài sản khác; về nhà ở gồm có căn hộ số 7, số 8 A3 Yên Bái, phường phố Huế, HN (do vợ chồng mua lại của ông Phạm Mạnh Hùng và bà Vũ Thị Kim Xuyến) và 2 căn hộ này vẫn thuộc sở hữu nhà nước do xí nghiệp quản lý nhà quận HBT quản lý. Hiện 2 căn hộ trên đã được vợ chồng anh cải tạo, sửa chữa cùng với căn hộ số 4 A3 của bà Nguyện Thị Thành (tức Thường- mẹ của anh) và cơi nới, làm thêm tầng 3 thành căn hộ khép kín, bịt cầu thang không đi chung cầu thang tập thể mà làm cầu thang đi riêng trong căn hộ khép kín này. Ngoài ra, vợ chồng anh còn một căn hộ 304 A10 Đầm Trấu, phường Bạch Đằng, HN do vợ anh mua của ông Đàm Quốc Khánh, nhưng đứng tên anh Nghiêm Xuân Thắng (là cháu ruột của vợ anh) với giá 420.000.000 đồng, vì anh ghi âm được cuộc nói chuyện giữa vợ anh với anh Thắng nên anh xác định căn hộ này là tài sản chung của vợ chồng; về cửa hàng D3 tập thể Nguyễn Công Trứ, năm 1990 bà Thành thuê 2,4m2 với Ủy ban nhân dân phường phố Huế để vợ chồng anh đang kinh doanh, sau đó vợ chồng anh mua thêm của 3 người khác nên diện tích cửa hàng hiện nay là 18m2.
559/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1253
- 20
Tháng 7/2001 vợ chồng ông Nguyễn Văn Định và bà Nguyễn Thị Tư chuyển nhượng cho ông 3.165m2 đất tọa lạc tại khu vực 11, phường CVL, quận ÔM, thành phố CT; đất này một mặt giáp đất của vợ chồng ông LQ_Lê Hiếu Thanh, bà BĐ_Nguyễn Thị Na. Sau khi mua ông đã làm hàng rào tạm (cột trụ xi măng, lưới B40), khi làm hàng rào có sự chứng kiến và đồng ý của bà BĐ_Na, nhưng sau đó bà BĐ_Na cho người nhổ cọc lấn sang đất của ông. Nay qua đo đạc thực tế điện tích đất chỉ có 2.910m2, thiếu 255m2 đất so với diện tích đất được cấp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17/7/2001, nên ông yêu cầu bà BĐ_Na phải trả lại cho ông phần đất có chiều rộng 2,8m, dài 111,5m.