cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

44/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 259
  • 3

Tranh chấp thừa kế

22-05-2013

Cố Giản và cố Kiên chết để lại di sản gồm một căn nhà từ đường cấp 4 (diện tích 75m2) trên lô đất thổ diện tích sau khi mở đường còn 1.043,8m2 thuộc thửa 550 và 551 toạ lạc tại thôn Phú Thạnh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang hiện do ông Vân quản lý nhà và phần lớn đất (cụ Mười và ông Nông làm nhà trên một phần đất cùng trong khuôn viên) và một lô đất màu dùng làm nghĩa địa diện tích 1.384m2 thuộc thửa 439 và 440 cũng tại thôn Phú Thạnh, hiện do ông Vân quản lý toàn bộ.


27/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2522
  • 115

Đòi lại tài sản

08-07-2010

Bà Thảnh là Việt kiều ở Hà Lan về thăm thân nhân tại Việt Nam và có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên ngày 10-8-1993 bà có nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hêng Tính, bà Lý Thị Sà Quênh diện tích 7.595,7m2 đất ruộng tại phường 7 thị xã Sóc Trăng với giá 21,99 chỉ vàng. Bà là người trực tiếp giao dịch, thỏa thuận việc chuyển nhượng và trả tiền, vàng cho vợ chồng ông Hênh Tính. Mục đích của bà Thảnh là chuyển nhượng đất để giao cho em ruột của bà là ông Nguyễn Văn Tám và bà Nguyễn Thị Chính Em canh tác nuôi cha mẹ của bà và ông Tám. Do bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên bà để cho ông Tám đứng tên trong giấy tờ sang nhượng. Đồng thời, bà Thảnh xuất trình “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993 có xác nhận của UBND xã An Hiệp. Sau khi nhận chuyển nhượng bà để cho vợ chồng ông Tám canh tác, nhưng năm 2004, không được bà đồng ý, ông Tám đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích 7.595,7m2 đất trên cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá trị quyền sử dụng đất là 1.260.000.000 đồng. Vì vậy, bà yêu cầu ông Tám trả lại số tiền thu được từ việc chuyển nhượng đất của bà.


16/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1197
  • 22

Tranh chấp chia di sản

07-04-2010

Tại đơn kiện ngày 22-10-2001 và trong quá trình tố tụng, các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Khơi, bà Nguyễn Thị Quá và bà Lê Thị Ngọc Anh trình bày: Vợ chồng cố Đặng Văn Cử và cố Nguyễn Thị Kiều (cả hai cố chết từ thời Pháp thuộc) có 3 người con là: cụ Đặng Thị Mạo (chết năm 1994, có con là bà Lê Thị Lan và bà Lê Thị Ngọc Anh); cụ Đặng Văn Mộng (chết từ thời Pháp thuộc, có con là bà Đặng Thị Hường và ông Đặng Văn Lập, nhưng ông Lập đã chết từ năm 1974, có con là anh Đặng Văn Công và anh Đặng Văn Lợi); cụ Đặng Thị Bay (chết năm 1972, có con là bà Nguyễn Thị Khơi và bà Nguyễn Thị Quá). Cố Đặng Văn Cử, cố Nguyễn Thị Kiều để lại 46.285m2 đất ruộng tại cánh đồng Nước Nhĩ, ấp Bắc, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa. Từ năm 1950 đến năm 1975, vợ chồng cụ Đặng Thị Bay canh tác, sử dụng đất. Năm 1975, gia tộc giao đất cho bà Hường quản lý.


16/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1566
  • 36

Yêu cầu chia tài sản chung

07-04-2010

Tại đơn kiện ngày 22-10-2001 và trong quá trình tố tụng, các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Khơi, bà Nguyễn Thị Quá và bà Lê Thị Ngọc Anh trình bày: Vợ chồng cố Đặng Văn Cử và cố Nguyễn Thị Kiều (cả hai cố chết từ thời Pháp thuộc) có 3 người con là: cụ Đặng Thị Mạo (chết năm 1994, có con là bà Lê Thị Lan và bà Lê Thị Ngọc Anh); cụ Đặng Văn Mộng (chết từ thời Pháp thuộc, có con là bà Đặng Thị Hường và ông Đặng Văn Lập, nhưng ông Lập đã chết từ năm 1974, có con là anh Đặng Văn Công và anh Đặng Văn Lợi); cụ Đặng Thị Bay (chết năm 1972, có con là bà Nguyễn Thị Khơi và bà Nguyễn Thị Quá). Cố Đặng Văn Cử, cố Nguyễn Thị Kiều để lại 46.285m2 đất ruộng tại cánh đồng Nước Nhĩ, ấp Bắc, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa. Từ năm 1950 đến năm 1975, vợ chồng cụ Đặng Thị Bay canh tác, sử dụng đất. Năm 1975, gia tộc giao đất cho bà Hường quản lý.


03/2006/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 2778
  • 83

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

14-11-2006

Căn cứ quyết định số 146/2000/QĐ-UB ngày 15/3/2000 của UBND tỉnh TB (BL.23) – Phê duyệt mức vốn vay “Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm” đối với dự án sản xuất và chế biến nấm xuất khẩu của Công ty Nấm xuất khẩu Thanh Bình, ngày 25/4/2000 Kho bạc nhà nước tỉnh TB (nay là NĐ_Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh TB ) đã ký hợp đồng tín dụng số 68/HĐ-TD (BL 32) cho ông BĐ_Nguyễn Tiến Thịnh – “Giám đốc Công ty” vay 200.000.000 đồng, mục đích vay để”mở rộng dây chuyền sản xuất và chế biến nấm xuất khẩu”; thời hạn vay là 24 tháng; lãi suất vay trong hạn là 0,5%/tháng; lãi quá hạn là 1%/tháng; hình thức đảm bảo: “Bảo lãnh bằng tài sản” của một số cá nhân