59/2012/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1695
- 44
Cụ Tòng, cụ Dân tạo lập được nhà 62 NCT, phường 3, TH, PY từ năm 1957, cụ Tòng chết không để lại di chúc. Ngày 26/4/1994, cụ Dân lập di chúc có xác nhận của ủy ban nhân dân phường 3 cùng ngày, phân chia cho bà hưởng thừa kế phần nhà trước 6m X 6,8m, giao phần nhà sau 6m X 7,8m cho anh LQ_Võ Văn Thân (con ông BĐ_Vân) sở hữu. Di chúc do cụ Dân làm và tự đem đến ủy ban nhân dân phường 3 xác nhận, sau 1 - 2 tháng thì cụ Dân đưa di chúc và giấy tờ về nhà đất cho bà giữ, không đưa cho anh LQ_Thân bản nào. Bà lập gia đình năm 1969, ở chung cùng cụ Dân và ông BĐ_Vân tại nhà đất tranh chấp đền năm 1982 bà mua nhà ở riêng tại nhà đang ở hiện nay. Năm 1975 cụ Dân mua cho bà LQ_Giang nhà 20 PĐP, không cho bà và ông BĐ_Vân tài sản nào. Ông BĐ_Vân ở cùng cụ Dân đến năm 1987 thì cụ Dân ngăn nhà trên ở riêng, ăn riêng, còn ông BĐ_Vân ở nhà dưới. Trước đây do ông BĐ_Vân hỗn láo, đối xử với mẹ không ra gì, mẹ bà đã phải gửi đem ra ủy ban nhân dân phường 3 và ủy ban nhân dân phường 3 đã phải giải quyết 3 lần vào năm 1986. Cụ Dân còn viết nhiều nhật ký về việc vợ chồng ông BĐ_Vân đối xử tệ bạc.
43/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 435
- 13
Sinh thời cụ Thơ và cụ Cúc tạo lập được khối tài sản bao gồm: căn nhà trên 4.000m2 đất tại số 60 đường LVN, khóm Bình Long 3, phường Mỹ Khánh, thành phố LX, tỉnh AG cùng các vật dụng trong gia đình bao gồm: 01 tủ thờ, 02 đi văng, bàn ghế... Hiện tại, ông BĐ_Kỳ, ông BĐ_Thứ và bà cùng quản lý sử dụng căn nhà. Bà BĐ_Bông Quyên sử dụng nhà bếp và chiếm dụng đất của cha mẹ để xây dựng 01 căn nhà và làm hầm nuôi cá. Bà LQ_Như Quyên cũng cất 01 căn nhà trên đất của cha mẹ. Sau khi bà LQ_Như Quyên, chết (năm 2003) thì chị Trần Lệ Nga (con của bà LQ_Như Quyên) sử dụng nhà này.
39/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2188
- 108
Cụ Vương Phước Duyên (chết ngày 21/4/1960) có 02 người vợ: vợ thứ nhất là cụ Nguyễn Thị Trọng (chết năm 1955), cụ Duyên và cụ Trọng có 2 người con chung là ông Vương Phước Trung (chết ngày 4/6/1998, có vợ là bà Võ Thi Chân, chết ngày 2/11/1996, ông Trung, bà Chân có 5 người con trong đó có anh NĐ_Vương Phước Tề (là nguyên đơn) và ông Vương Phước Thuận (chết ngày 16/12/1986, có vợ là bà Nguyễn Thị Kề chết ngày 26/7/1992, ông Thuận, bà Kề có 12 người con trong đó có anh BĐ_Vương Hùng Quân là bị đơn); vợ thứ hai là cụ Hà Thị Hường (chết năm 1995), cụ Duyên vói cụ Hường không có con chung.
402/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 667
- 12
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ngày 25/8/2008 bà NĐ_Nguyễn Thị Phi có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của cha mẹ. Tại Tòa án bà NĐ_Phi trình bày: Khi cha mẹ bà còn sống, đã họp gia đình và quyết định chia cho bà LQ_Miên 411 m2 đất nguyên thổ, trên có nhà, bếp, sân vườn, vì bà LQ_Miên sống cùng cha mẹ từ nhỏ, khi lập gia đình vẫn sống cùng cha mẹ, có công chăm sóc, phụng dưỡng lúc cha mẹ tuổi già, sau khi cha mẹ qua đời, bà LQ_Miên sẽ thay mặt các chị em hương khói cho tổ tiên và cha mẹ. Phần đất còn lại có diện tích 269 m2, cụ Chúc, cụ Hát để lại cho bà BĐ_Phú, bà BĐ_Phụng và bà NĐ_Phi. Cụ Chúc chết năm 1990, không để lại di chúc. Năm 2003, cụ Hát chết. Sau khi cụ Hát chết, bà BĐ_Phú và bà BĐ_Phụng xuất trình bản di chúc, nói là của cụ Hát lập ngày 25/01/1996, được ủy ban nhân dân xã KN chứng thực, có nội dung cụ Hát không cho bà được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất. Theo bà thì bản di chúc trên không phải là của cụ Hát, mà là do bà BĐ_Phú, bà BĐ_Phụng đã giả mạo, nhằm truất quyền thừa kế của bà, chữ ký và chữ viết tên bà trong bản di chúc là không phải chữ ký, chữ viết của bà. Bà đề nghị Tòa án hủy bản di chúc, chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích 269 m2 đất, nay thuộc thửa số 34, tờ bản đồ số 24 vẫn đứng tên chủ sử dụng là cụ Nguyễn Mậu Chúc; riêng diện tích đất cha mẹ bà đã cho bà LQ_Miên, bà LQ_Miên đã kê khai, đăng ký và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2006 thì bà không tranh chấp.
329/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 371
- 7
Theo đơn khởi kiện ngày 24/7/2008 và quá trình tố tụng, nguyên đơn ông NĐ_Ngô Thanh Hào trình bày: ông Ngô Văn Dương và bà Nguyễn Thị Tua có 9 người con: Ngô Văn Đi (chết) có vợ là LQ_Huỳnh Thị Én và 02 con là LQ_Ngô Thị Phú và LQ_Ngô Văn Thứ; bà LQ_Ngô Thị Chi; ông NĐ_Ngô Thanh Hào; ông LQ_Ngô Văn Đa; BĐ_Ngô Văn Riêu; bà LQ_Ngô Thị Ra; bà LQ_Ngô Thị Ga; bà LQ_Ngô Thị Liên; bà LQ_Ngô Thị Đan. Năm 2003, ông Dương chết. Năm 2004, bà Tua chết. Di sản ông Dương và bà Tua để lại gồm: một phần đất có diện tích 8.133,6m2 toạ lạc ấp 5, xã CPH, huyện BC, tỉnh BD, trên đất có 01 căn nhà cấp 4 và một số cây ăn trái. Trên phần đất này, ông Dương và bà Tua có cho bà LQ_Ngô Thị Ga một phần ngang khoảng 10m, dài hết đất khoảng 50m (phần đất này bà LQ_Ga đã cắm cột mốc). Một phần đất có diện tích khoảng 14.000 m2 toạ lạc tại ấp Long Hưng, huyện BC, tỉnh BD. Ông Dương và bà Tua chết không để lại di chúc.