cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

34/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 281
  • 13

Đòi lại tài sản

11-07-2014

Năm 1995, do mở đường, có giải tỏa một phần lộ giới ông Ngọc đã lừa dối bà Lê và bà Huê ký vào giấy xin sửa nhà nhưng thực tế là giấy chuyển nhượng nền nhà giá 10 cây vàng, do hai bà tin ông Ngọc nên đã ký giấy. Bà Lê và bà Huê xác định chưa nhận vàng của ông Ngọc và ông Ngọc cũng thừa nhận chưa trả vàng cho hai bà. Sau đó, ông Ngọc đã phá nhà cũ, xây dựng căn nhà 3 tầng mới. Các ông bà biết được việc này thông qua báo chí, đã đến gặp ông Ngọc và khiếu nại. Chính quyền địa phương đã quyết định xử phạt hành chính không cho xây dựng, nhưng ông Ngọc vẫn tiếp tục xây dựng hoàn thiện nhà ba tầng như hiện nay. Nay các ông bà yêu cầu ông Ngọc trả lại đất để cho con cháu các ông bà cất nhà ở. Các ông bà đồng ý trả lại giá trị căn nhà ông Ngọc đã xây dựng theo định giá.


32/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 977
  • 12

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

11-07-2014

Ông là Việt kiều Pháp. Do muốn mua nhà tại thành phố Hồ Chí Minh để sau khi về hưu thì cả gia đình ông sẽ hồi hương về Việt Nam, đồng thời để cha là cụ Võ Văn Hợi, mẹ kế là cụ Dương Thị Ngọc Ánh và các em cùng cha khác mẹ gồm Võ Thị Đông Phương, Võ Thị Đông Thanh, Võ Thị Đông Thảo chuyển từ tỉnh Trà Vinh lên thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Năm 1989, ông đã nhiều lần gửi thuốc tây từ Pháp về Việt Nam (có lần ông trực tiếp mang thuốc về) để bà Phương bán và ông gửi thêm tiền về để bà Phương mua căn nhà 23B nay là căn nhà số 29 Cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh của bà Nguyễn Thị Thân vào ngày 19-9-1989.


147/2013/DS-GDT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 639
  • 10

Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung

16-12-2013

Theo đơn khởi kiện ngày 20-8-2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Đức Anh (do ông Võ Thanh Tùng đại diện) trình bày: Năm 1975, ông chung sống với bà Lã Thị Bích Liên, ngày 5-12-1976 ông và bà Liên đăng ký kết hôn. Năm 1979, vợ chồng ông mua căn nhà số 526 An Dương Vương, phường 9, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh của cụ Tiêu Mộc. Do không có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh nên ông để bà Liên đứng tên và để giảm thuế hai bên không lập hợp đồng mua bán mà ngày 07-6-1979 cụ Tiêu Mộc lập “Giấy ủy quyền” cho bà Liên căn nhà trên. Ngày 29-8-1979, Sở Quản lý nhà đất thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép cho nhà số 926/GP-SNĐ.


147/2013/DS-GDT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2092
  • 55

Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng

16-12-2013

Theo đơn khởi kiện ngày 20-8-2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Đức Anh (do ông Võ Thanh Tùng đại diện) trình bày: Năm 1975, ông chung sống với bà Lã Thị Bích Liên, ngày 5-12-1976 ông và bà Liên đăng ký kết hôn. Năm 1979, vợ chồng ông mua căn nhà số 526 An Dương Vương, phường 9, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh của cụ Tiêu Mộc. Do không có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh nên ông để bà Liên đứng tên và để giảm thuế hai bên không lập hợp đồng mua bán mà ngày 07-6-1979 cụ Tiêu Mộc lập “Giấy ủy quyền” cho bà Liên căn nhà trên. Ngày 29-8-1979, Sở Quản lý nhà đất thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép cho nhà số 926/GP-SNĐ.


131/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2052
  • 38

Tranh chấp thừa kế

27-09-2013

Về xác định di sản: Các đương sự thừa nhận cố Khuê, cố Hiến chết để lại 7040m2 đất đã có Bằng khoán điền thổ số 152 ngày 12/9/1937 do cố Khuê đứng tên, trên đất khi giao cho cụ Cử quản lý có cây lâu năm do hai cố để lại. Sau khi hai cố chết, những người con khác của hai cố đã quản lý đất và cây, đến năm 1962 mới giao cho cụ Cử quản lý, năm 1972 cụ Cử mới làm nhà ở trên đất. Cụ Cử cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai, không có giấy tờ gì thể hiện việc được các anh chị cho hưởng riêng tài sản này. Theo quy định tại Điều 247 Bộ luật dân sự về việc xác lập quyền sở hữu bất động sản theo thời hiệu thì tính đến thời điểm các nguyên đơn khởi kiện năm 1988 thì cụ Cử chưa trực tiếp sử dụng đất tranh chấp được 30 năm, nên không có cơ sở xác định đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cụ Cử như Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định là có căn cứ. Nội dung kháng nghị cho rằng đất tranh chấp không còn là di sản của cố Khuê, cố Hiến để lại là không có cơ sở chấp nhận.