49/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1288
- 34
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cụ Huỳnh Tấn Minh (chết năm 1993) và cụ Trần Thị Ba (chết năm 2005) khi còn sống hai cụ tạo lập được 1000m2 đất thuộc thửa 1060 và 6.400m2 đất thuộc thửa 1061, tờ bản đồ số 2 ấp Tân Bình Hạ, xã TH, huyện TB, tỉnh ĐT. Ngày 15/10/1997, ủy ban nhân dân huyện TB cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Huỳnh Văn Sinh (là con của cụ Minh, cụ Ba) đứng tên (trong đó có cả diện tích đất mà cụ Minh, cụ Ba đã cho vợ chồng ông Lộc) nên yêu cầu ông BĐ_Sinh, bà BĐ_Phương, bà LQ_Linh phải giao trả 1.413,75m2 đất có chiều ngang 15m, dài từ hố Bến Siêu đến đất ruộng ông Mam cho nguyên đơn sử dụng
44/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 881
- 17
Ngày 01/11/2005, ủy ban nhân dân xã LH có mời ông, ông LQ_Chinh, ông BĐ_Lãnh, bà LQ_Viên, bà LQ_Chung ra trụ sở để công bố di chúc của cụ San. Ông và mấy anh chị em không nhất trí, cho rằng đó là di chúc giả vì khi cụ San lập di chúc anh em ông không chứng kiến. Sau đó ông đến nhà ông Bạch Văn Hào là người viết hộ di chúc để hỏi thì ông Hào cho biết ông BĐ_Lãnh đã lừa ông Hào để ông Hào viết, ông BĐ_Lãnh khi đó mang một di chúc mẫu và nhờ ông Hào viết hộ. Ngay sau đó ông đã làm nhiều đơn đề nghị, kiến nghị Ủy ban nhân dân xã LH giải quyết nhiều lần nhưng không được. Nay ông khởi kiện yêu cầu chia di sản của bố mẹ để lại theo pháp luật.
08/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 463
- 12
Ngày 25/11/1995, cụ Cát đã lập di chúc cho bà toàn bộ khối tài sản trên. Sau khi cụ Cát chết, bà đã giao toàn bộ 02 khối tài sản trên cho anh BĐ_Chung trông nom quản lý giúp nhưng trong quá trình quản lý anh BĐ_Chung đã tự ý phá bỏ gốc vải mà không hỏi ý kiến của bà. Năm 1996, bà mới biết anh BĐ_Chung bán 05 thước đất gốc vải cho ông LQ_Lê Văn Định và sau đó nhờ ông LQ_Nhật bán lại cho chị LQ_Nguyễn Thị Kim Như. Cùng năm 1996, bà LQ_Sa (mẹ anh BĐ_Chung) bán 05 thước đất gốc vải khu bờ Ngòi cho anh LQ_Nguyễn Kim Hiên, bà cũng không biết. Do đó, bà yêu cầu anh BĐ_Chung phải trả lại toàn bộ 02 khối tài sản trên và không yêu cầu anh BĐ_Chung bồi thường số gốc vải anh BĐ_Chung đã phá bỏ. Việc anh BĐ_Chung tự ý xây dựng nhà kiên cố trên đất đang tranh chấp thì bà yêu cầu anh BĐ_Chung tháo dỡ toàn bộ và không đồng ý thanh toán phần đã xây dựng.
06/2012/HC-GĐT Giám đốc thẩm Hành chính
- 610
- 38
Khiếu nại Quyết định hành chính về quản lý nhà nước về đầu tư
việc Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đã ra Quyết định số 01/2009/QĐĐC-HCST ngày 30/6/2009 đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính, với lý do: “Vụ việc đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực của Tòa án” (Quyết định số 11/2007/QĐĐC-HCST ngày 07/3/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang) và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã ra Quyết định phúc thẩm số 138/2009/QĐ-PT ngày 28/9/2009, với nội dung: “Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Sông Lô, giữ nguyên Quyết định số 01/2009/QĐĐC-HCST ngày 30/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang” là không đúng quy định của pháp luật. Do vậy, Quyết định kháng nghị số 22/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 20/9/2010 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Quyết định phúc thẩm số 138/2009/QĐ-PT ngày 28/9/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội là có căn cứ pháp luật.
05/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1475
- 69
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Vào ngày 06.08.2012, ông BĐ_Đoàn Sơn Thi đến nhà ông hỏi vay số tiền là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), lãi suất do hai bên thỏa thuận và đóng hàng tháng. Khi giao nhận tiền giữa ông và ông BĐ_Thi có viết “tờ giấy nợ”, ông BĐ_Thi đã ký tên xác nhận. Sau khi vay tiền cho đến nay ông BĐ_Thi chỉ trả được cho ông 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng). Đến ngày 22.01.2013 ông đồng ý miễn tiền lãi suất cho ông BĐ_Thi kể từ ngày 22.01.2013 (âm lịch) cho đến ngày 22.03.2013 (âm lịch) để ông BĐ_Thi lo thu xếp trả tiền lại cho ông, nhưng từ đó cho đến nay ông BĐ_Thi không trả thêm cho ông số tiền nào nữa