181/2016/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 680
- 40
Theo đơn khởi kiện ngày 28/5/2008 và bản tự khai ngày 14/7/2008 đại diện ủy quyền của nguyên đơn – Ông Nguyễn Tâm trình bày: Nguồn gốc phần đất ông BĐ_Nguyễn Văn Hữu và bà BĐ_Nguyễn Thị Nhi cùng gia đình đang chiếm hữu, sử dụng là của ông Trần Văn Phú (chết năm 1977) và vợ là bà Lê Thị Hưu (chết năm 1994) có diện tích khoản 6.000m2 tọa lạc tại địa chỉ 2941/15 PTH, Phường 7, Quận X, Tp.HCM. Ông Phú và bà Hưu có 01 người con nuôi duy nhất là ông NĐ_Trần Văn Dương. Năm 1976 ông BĐ_Nguyễn Văn Hữu là cán bộ tập kết có mượn, ở nhờ trên phần đất này. Năm 1989 ông NĐ_Trần Văn Dương có bán cho ông BĐ_Hữu bằng giấy tay một phần ao khoảng 3.500m2, phần đất còn lại mà ông BĐ_Hữu và gia đình chiếm dụng ông NĐ_Dương đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Hữu hoàn trả nhưng không thành. Sau đó ông BĐ_Hữu đã sang nhượng đất lại cho nhiều người.
170/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2210
- 56
Tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản
Ngày 02/08/2010, ông NĐ_Nguyễn Minh Hòa và bà LQ_Nguyễn Thị Minh Trinh có ký hợp đồng thế chấp số 120/EIB BR-TDTH/BLTS/10 bảo lãnh cho bà Tống Thị Ái, Nguyễn Ngọc Thạch, Lê Hữu Vân Phương vay tại Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam – Chi nhánh Bà Rịa số tiền là 7,5 tỷ đồng. Ngày 29/07/2014 ông NĐ_Nguyễn Minh Hòa đến Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (EIB) – Chi nhánh Bà Rịa nộp tiền trả nợ vay và trả thay cho những người vay mà ông NĐ_Hòa – bà LQ_Trinh đã bảo lãnh. Số tiền mà ông NĐ_Hòa trả nợ cho bà Ái gốc là 4,0 tỷ đồng, trong khi nghĩa vụ bảo lãnh là 3,5 tỷ đồng. Sau khi phát hiện sai sót ông NĐ_Hòa đã có văn bản yêu cầu EIB trả lại cho ông NĐ_Hòa – bà LQ_Trinh số tiền đã trả dư nhưng EIB không giải quyết.
69/2016/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1728
- 28
Sau khi kết hôn, vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc. Đến năm 2010, hai người chuyển về chung sống cùng gia đình ông BĐ_Hận ở Tây Ninh thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp nhau về tính tình, cách sống, cách cư xử đối với cha, mẹ và anh chị em nhà chồng. Sau đó vợ chồng bà chuyển xuống Sài Gòn sinh sống, làm ăn nhưng vợ chồng không còn hạnh phúc như trước, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt và hay xảy ra xô xát nên từ tháng 05/2015 bà đã ra sống riêng. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và để ổn định cuộc sống nên bà xin ly hôn với ông BĐ_Hận. Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Minh Phát, sinh ngày 24/11/2011, bà xin được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông BĐ_Hận cấp dưỡng nuôi con. Hiện con đang sống với bà, bà NĐ_Bình đang làm Kế toán tại Công ty TNHH-TM-DV Thu Thiện – Nhà hàng ẩm thực 2 ở Quận 7 với mức lương hàng tháng là 7.200.000 đồng. Về tài sản chung và nợ chung: Bà NĐ_Bình khai không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.
99/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1505
- 86
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn là bà NĐ_Nguyễn Thị Kim trình bày: Năm 2011 bà có nhờ bà LQ_Phạm Thị Sinh – địa chỉ: 38A tổ 5, đường 102, khu phố 7, phường TNP A, Quận X, Tp.HCM đi cầm giấy tờ đất để vay số tiền là 10.000.000 đồng, thời hạn vay 2 tháng. Bà đã giao bản chính giấy tờ đất số BB474360 ngày 05/7/2010 (số vào sổ cấp GCN: CH00417 do Ủy ban nhân dân Quận X cấp cho hộ bà NĐ_Nguyễn Thị Kim) cho bà LQ_Sinh và bà LQ_Sinh đưa cho bà số tiền 10.000.000 đồng. Việc giao nhận tiền và giao bản chính giấy tờ đất giữa bà và bà LQ_Sinh đều không lập giấy tờ. Bà LQ_Sinh đem giấy tờ đất của bà đi cầm cho ai bà không rõ nhưng sau đó bà LQ_Sinh nói với bà đi ra phòng công chứng ký hợp đồng cho bà LQ_Sinh mượn giấy tờ đất. Khi ký hợp đồng tại phòng công chứng, bà không biết chữ nên không đọc được và không được nghe ai đọc nội dung hợp đồng nhưng do tin bà LQ_Sinh nên bà ký vào hợp đồng. Khi ký xong thì người đi cùng bà LQ_Sinh đưa cho bà số tiền 2.900.000 đồng nói cho để bà làm vốn mua ve chai. Đến tháng 8/2011 có người xuống nhà bà gặp chồng và các con bà yêu cầu giao đất và đưa hợp đồng ủy quyền công chứng ra thì bà mới biết bị lừa dối ký vào hợp đồng ủy quyền cho bà BĐ_Lê Thị Hoa.
61/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1621
- 80
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn có đại diện theo ủy quyền ông Trần Văn Tiến trình bày: Vào ngày 08/11/2010 bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Linh có cho bà BĐ_Phạm Thị Khanh và ông BĐ_Nguyễn Văn Bé Bình mượn số tiền 2.200.000.000 (Hai tỷ hai trăm triệu) đồng, việc vay mượn tiền đôi bên có lập giấy tờ tay, thời hạn mượn là từ ngày 08/11/2010 đến ngày 15/12/2010; nếu đến ngày 15/2/2010 phía bị đơn không trả đủ hết số tiền trên thì nguyên đơn sẽ tính lãi theo lãi suất ngân hàng nhà nước quy định. Thực hiện hợp đồng vay bà NĐ_Linh đã giao đủ tiền cho bà BĐ_Khanh và ông BĐ_Bé Bình. Nhưng đến hẹn vợ chồng bà BĐ_Khanh, ông BĐ_Bé Bình không thực hiện việc trả nợ cho bà NĐ_Linh như cam kết; mà viết giấy tờ tay hẹn lại đến ngày 30/02/2011 vợ chồng bà BĐ_Khanh, ông BĐ_Bé Bình sẽ thực hiện việc trả nợ cho bà NĐ_Linh; nhưng đến hẹn vợ chồng bà BĐ_Khanh, ông BĐ_Bé Bình vẫn không thực hiện việc trả nợ như cam kết và đôi bên tiếp tục viết giấy hẹn đến ngày 15/7/2012 bà BĐ_Khanh, ông BĐ_Bé Bình sẽ thực hiện việc trả nợ cho bà NĐ_Linh nhưng đến hẹn vẫn không thực hiện;