07/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 476
- 19
Theo đơn khởi kiện và những lời khai tại Tòa, nguyên đơn là bà NĐ_Tăng Thị Kim Loan trình bày: Ngày 20/7/2012, tôi và bà BĐ_Đan ký thoản thuận xác định bù trừ nghĩa vụ về tiền nợ của em tôi là LQ_Tăng Thị Kim Thủy như sau: 07 lượng vàng: 07 x 42.000.000 đồng = 294.000.000 đồng. 2.000 USD : 2000 x 21.000 đồng = 42.000.000 đồng. Tiền mặt : 50.000.000 đồng. Tổng cộng là : 386.000.000 đồng. Bù trừ hụi, bà BĐ_Đan còn thiếu tôi: 161.750.000 đồng. Tổng số tiền sau khi bù trừ: 224.250.000 đồng. Bà BĐ_Đan tự nguỵên bớt cho bà LQ_Thủy: 24.250.000 đồng. Số tiền tôi còn nợ bà BĐ_Đan: 200.000.000 đồng. Sau khi hai bên ký thỏa thuận, tôi đã trả ngay 100.000.000 đồng cho bà BĐ_Đan. Còn 100.000.000 đồng, do buôn bán gặp khó khăn nên chưa trả theo đúng thời hạn 03 tháng cho bà BĐ_Đan.
318/2016/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 767
- 16
Bà và ông BĐ_Vo Anthony tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 4204 quyển số 16, ngày 29/12/2007 tại Sở tư pháp Thành phố HCM. Bà và ông BĐ_Vo Anthony kết hôn là do mai mối của người thân tại Hoa Kỳ. Năm 2007 ông BĐ_Vo Anthony trở về Mỹ sinh sống. Hai người chỉ liên lạc với nhau qua điện thoại chứ không có cuộc sống như vợ chồng. Do vậy, mâu thuẫn giữa bà và ông BĐ_Vo Anthony ngày càng trầm trọng không thể hòa giải được và đỉnh điểm là vào năm 2011 khi hồ sơ bảo lãnh của bà được hoàn tất , Lãnh sự quán Mỹ mời lên phỏng vấn theo diện đoàn tụ gia đình nhưng Tổng Lãnh sự quán Mỹ tại Việt Nam không liên lạc được với ông BĐ_Vo Anthony. Kể từ thời điểm đó cho đến nay bà và ông BĐ_Vo Anthony không còn liên lạc với nhau. Vì vậy, bà NĐ_Hương và ông BĐ_Vo Anthony đã quyết định ly hôn vì không còn tình cảm với nhau và mục đích hôn nhân không đạt được.
260/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2467
- 48
Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2002 của ông NĐ_Trần Văn Ngưng yêu cầu bà BĐ_Đỗ Thị Thiên cùng gia đình phải trả cho ông căn nhà số 28C NHC, phường TĐ, Quận H, Thành phố HCM. Tháng 3/2006 ông NĐ_Trần Văn Ngưng chết những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của NĐ_Ngưng là vợ bà Nguyễn Thị Muôn và các con là các ông bà Trần Thị Xuân Mai, Trần Thị Thu Cúc, Trần Thị Anh Đào, Trần Thị Kim Phượng, Trần Thiện Minh Tâm có bà Trần Thị Xuân Mai là đại diện ủy quyền. Bà Trần Thị Xuân có các lời khai bổ sung như sau: Nguồn gốc căn nhà số 28C NHC, phường TĐ, Quận H, TP.HCM của ông bà nội chúng tôi là ông Trần Văn Bối (chết 1961) và bà Trần Thị Đức (chết 1999), để lại cho cha của bà là ông NĐ_Trần Văn Ngưng (chết năm 2006). Căn nhà nằm trong bằng khoán 616 tờ số 2 thuộc thửa 60 được chiết ra từ bằng khoán 167 lập bộ vào ngày 23/5/1934 và từ đó đến ngày 30/4/1975 bằng khoán 616 không thay đổi.
202/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1871
- 45
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Năm 1978, ông NĐ_Thiện được Công Ty Cầu Đường GĐ bố trí sử dụng căn nhà 15-17 (tầng 2) PVĐ, phường BN, Quận X. Đến ngày 25 tháng 6 năm 1979, Công Ty Cầu Đường NT thuộc Sở Giao Thông Công Chánh ra Công văn số: 53/CTCĐ/NT xác nhận đã bố trí chỗ ở cho công nhân viên cùng gia đình, trong đó có ông NĐ_Nguyễn Long Thiện và anh trai là ông Nguyễn Long Hải. Theo đó, ông NĐ_Thiện cùng gia đình là cha, mẹ và anh trai (ông Nguyễn Long Hải) được bố trí căn hộ có diện tích rộng 44m2 gồm có 2 phòng riêng, kế vách nhau ở lầu 1 số 15-17 đường PVĐ, phường BN, Quận X, Thành phố HCM và ông Hải đại diện cho các thành viên trong gia đình thuê nhà này của Nhà nước vì vào thời điểm này ông Hải và ông NĐ_Thiện làm cùng công ty và cùng có tên trong danh sách đã được phân phối nhà ngày 07 tháng 9 năm 1978. Sau khi nhận được nhà, gia đình đã tự phân chia căn phòng bên trái nhìn từ ngoài đường PVĐ vào (phòng số 15, lầu 1) dành cho ông Hải sử dụng, phòng phía bên phải nhìn từ ngoài vào (số 17, lầu 1) dành cho ông NĐ_Thiện sử dụng.
42/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3108
- 116
Tháng 01 năm 2009 bà NĐ_Ngô cho ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Bích vay số tiền 1.900.000.000 đồng, thoả thuận thời hạn vay 04 tháng, lãi suất 20.000.000 đồng/tháng. Hết thời hạn vay, ông BĐ_Ninh bà BĐ_Bích không có khả năng trả nợ nên ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Bích đồng ý bán căn nhà tại địa chỉ 81 DC, Khu phố 2, phường BT, quận TĐ, Thành phố HCM cho bà NĐ_Ngô với giá 2.000.000.000 đồng để cấn trừ khoản tiền nợ gốc 1.900.000.000 đồng và 05 tháng tiền lãi 100.000.000 đồng. Ngày 27/5/2009 hai bên đã ký kết hợp đồng mua bán nhà tại Phòng công chứng PAT, Thành phố HCM. Sau khi ký hợp đồng, ông BĐ_Ninh bà BĐ_Bích không đóng thuế nên bà NĐ_Ngô không thực hiện được việc đăng bộ sang tên nhà, đất. Bà NĐ_Ngô đã liên hệ ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Bích nhưng ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Bích yêu cầu bà NĐ_Ngô cho ông bà vay một khoản tiền để ông bà giải quyết công nợ thì ông bà sẽ hỗ trợ bà NĐ_Ngô đăng bộ, sang tên căn nhà.