154/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1283
- 49
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nhưng sau khi nhận cọc và tiến hành các thủ tục ký kết hợp đồng thì cơ quan quản lý đô thị cho biết chỉ giới xây dựng đường HVT là 8m, vị trí hẻm dưới bên hông nhà là 3m. Vị trí này khi xây dựng phải vạt góc theo quy chuẩn để đảm bảo tầm nhìn là 3m x 3m, nên phía bà NĐ_Nga và ông NĐ_Văn cho rằng phần đất trên khi xây dựng sẽ bị mất diện tích phía trước và phía hông so với hiện trạng thực tế do nằm trong lộ giới và hẻm giới. Nhưng khi thỏa thuận giao kết và đặt cọc, phía ông BĐ_Sinh và bà BĐ_Linh không cung cấp thông tin này cho bà NĐ_Nga và ông NĐ_Văn biết, từ đó bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn cho là bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn bị nhầm lẫn nên yêu cầu tòa án hủy bỏ giao kết hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 02/4/2010 giữa bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn với bà BĐ_Linh, ông BĐ_Sinh; đồng thời buộc bà BĐ_Linh, ông BĐ_Sinh trả lại 200.000.000 đồng tiền đặt cọc cho bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn.
103/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 609
- 18
Nguồn gốc phân đất tranh chấp với ông BĐ_Cao Phước Linh là của cha mẹ ông là cụ Phan Văn Tạc và cụ Đinh Thị Thé để lại cho ông thừa hưởng toàn bộ, ông đã được ủy ban nhân dân huyện CT cấp quyền sử dụng đất vào năm 2001 và được cấp đổi lại vào năm 2007 với diện tích 3.132m2. Gia đình ông BĐ_Cao Phước Linh sử dụng phân đất tranh chấp là do cha mẹ ông cho ở nhờ từ trước năm 1975. Vào năm 2009, đất ông BĐ_Cao Phước Linh bị quy hoạch giải tỏa để mở rộng đường liên xã, ông BĐ_Linh chỉ được nhận phần bồi thường kiến trúc và hoa màu, còn đất là của ông (ông chưa nhận tiền bồi thường đất do đang tranh chấp). Sau quy hoạch gia đình ông BĐ_Linh cất lại nhà trên phần đất của ông mà không hỏi ý kiến của ông. Do ông BĐ_Cao Phước Linh là anh rễ của ông nên ông đồng ý cho gia đình ông BĐ_Cao Phước Linh được tiếp tục sử dụng phần đất có chiều ngang 5,7m, chiều dài 15,5m, ngoài diện tích này ông BĐ_Cao Phước Linh phải di dời toàn bộ tài sản trả lại đất cho ông. Riêng phần đất có ngôi mộ của bà Phan Thị Nuôi thì ông không tranh chấp.
102/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 741
- 27
Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản
Nguyên đơn bà Neáng Noi trình bày: Bà có diện tích đất nông nghiệp 06 công tầm cắt (1 công tầm cắt bằng 1.296m2) tọa lạc tại Bào Cần Vọt thuộc Khóm An Hòa A, thị trấn BC, huyện TT, tỉnh AG. Vào năm 1989, do hoàn cảnh khó khăn bà có cố cho vợ chồng ông Trần Văn Tình (ông Tình đã chết năm 2004) và bà BĐ_Đặng Thị Hương phần đất trên với giá 50 giạ lúa, sau đó bà nhận thêm 50 giạ lúa và thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Tình, bà BĐ_Hương 03 công (=3.888m2) để trừ vào số lúa trên, 03 công còn lại tiếp tục thỏa thuận cầm cố cho vợ chồng ông Tình, bà BĐ_Hương với giá 05 phân vàng 24kra, hai bên thỏa thuận khi nào có tiền thì chuộc đất lại. Nay bà yêu cầu được chuộc lại 03 công đất nêu trên và đồng ý trả cho bà BĐ_Hương 05 phân vàng 24kara. Giấy cầm cố đất do ông Tình lập và giữ bản chính bà chỉ giữ bản phô tô.
44/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 839
- 35
Theo Đơn khởi kiện ngày l5/4/2011 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Nguyễn Xuân Nhị trình bày: Cha mẹ ông là cụ Nguyễn Như San (tên khác là Trác) và cụ Nguyễn Thị Khuyên có 6 người con gồm: ông Dần (đã mất năm 2010), ông, ông LQ_Chinh, bà LQ_Chơn, bà LQ_Vy, ông BĐ_Linh. Ông Dần và bà BĐ_Chi có 5 người con gồm: anh BĐ_Cần, chị LQ_Linh, chị LQ_Linh, chị LQ_Hoa, chị LQ_Thịnh. Cụ Khuyên mất năm 1998, cụ San mất năm 2005. Tài sản các cụ để lại là 989m2 đất gồm 410m2 đất thổ cư và 579m2 đất thổ canh tại thửa đất số 206 tờ bản đồ số 6 bản đồ địa chính xã LH lập năm 1986. Hiện nay bà BĐ_Chi, chị LQ_Thịnh và vợ chồng anh BĐ_Cần, chị LQ_Hòa đang quản lý 406m2 đất; ông BĐ_Linh đang quản lý 583m2 đất tại thửa đất trên.
43/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 276
- 18
NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 05/5/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Hoàng Xuân Linh (tức Láy) trình bày: Bố của ông là cụ Hoàng Văn Sông (tử sỹ năm 1946). Sau khi bố ông mất, gia đình ông có hai nhân khẩu là ông và mẹ ông - cụ Hoàng Thị San. Năm 1959, mẹ ông đưa khoảng 20.000m2 đất vào Hợp tác xã Đồng Tiến, xã Thanh Bình, huyện NR, tỉnh BK (nay là xã KL, huyện NR, tỉnh BK). Năm 1960, cụ San chết, năm 1961 ông đi học xa nhà nên toàn bộ đất đai do Hợp tác xã quản lý. Năm 1993, Hợp tác xã nêu trên tự giải thể, ông về nhận lại đất của cụ San, khi đi nhận đất có ông Hoàng Văn Cai là người cùng mẹ khác cha với ông đi cùng, sau đó ông cho ông Cai mượn toàn bộ đất của cụ San nhưng giữa hai người không làm thủ tục, giấy tờ gì.