148/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 590
- 6
Diện tích đất 1048m2 thuộc thửa số 338, tờ bản đồ số 28 toạ lạc tại ấp Đ, xã HL, thị xã BR của ông nội bà NĐ_Tiến là Võ Văn Vàng (chết) để lại cho cha bà là Võ Văn Tỉnh. Sau khi ông Tỉnh mất, miếng đất này để lại cho ba chị em gồm, bà LQ_Võ Thị Thùy, ông LQ_Võ Đức Thế và bà nhưng bà là người đại diện đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo đó, diện tích thửa đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 054539 cấp ngày 24 tháng 12 năm 1995 đứng tên bà NĐ_Võ Thị Tiến, hàng năm bà NĐ_Tiến vẫn đóng thuế đất đối với thửa đất này. Do ông BĐ_Võ Đức Toàn, là cháu ruột bà NĐ_Tiến, sinh ra và lớn lên trên thửa đất này cùng với cha mẹ của bà NĐ_Tiến và bà NĐ_Tiến và do sau đó các anh chị của bà và bà lấy vợ, lấy chồng không ở đây nữa. Thế nên kể từ khi ông BĐ_Toàn lớn lên và lấy vợ thì anh chị em bà NĐ_Tiến để cho tạm quản lý sử dụng diện tích đất này. Trên thửa đất này hiện nay, ông BĐ_Toàn có xây cất một căn nhà cấp 4 có chiều ngang 4m, chiều dài 9m và trồng một số cây ăn trái ngắn hạn sau vườn. Cho đến nay, các anh chị em trong gia đình bà đã cho ông BĐ_Toàn 2.000m2 đất tại ấp Bắc, xã HL để sinh sống.
1377/2008/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 560
- 3
* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 23-4-2008 và tại bản tự khai ngày 28-5-2008, nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Tân trình bày: ông và bà BĐ_Vũ Thị Tranh kết hôn với nhau từ năm 1993, thời gian đầu sau hôn nhân vợ chồng chung sống hạnh phúc. Năm 1995 công việc làm ăn của ông không ổn định, thu nhập thấp nên vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, không khí gia đình nặng nề, thêm vào đó bà BĐ_Tranh thường cờ bạc, không chịu nghe theo lời khuyên của ông. Nay ông yêu cầu được giải quyết cho ly hôn để đầu óc không bị căng thẳng.
147/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 602
- 9
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tại đơn khởi kiện ngày 28/01/2008, bà BĐ_Hoàng Bích Loan khởi kiện bà NĐ_Nguyễn Thị Kiều về việc yêu cầu bà NĐ_Kiều hoàn trả cho bà BĐ_Loan số tiền vay 5 lần từ ngày 28/6/2006 đến ngày 30/4/2007, tổng cộng là 219.370.000 đồng nhưng bà NĐ_Kiều chưa giao trả đủ. Tuy nhiên, bà NĐ_Kiều chỉ công nhận, vào khoảng tháng 4 năm 2006, bà có vay của bà BĐ_Loan 80.000.000 đồng và có thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà NĐ_Kiều do UBND huyện Long Đất cấp ngày 25/2/2004, đến nay phía bà NĐ_Kiều đã trả nợ gốc và lãi cho bà BĐ_Loan tổng cộng là 153.000.000 đồng.
146/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 688
- 5
Năm 1990, ông Nguyễn Văn Tuy cho ông một mảnh đất có chiều ngang 15m và chiều dài 20m. Việc này có sự xác nhận của tổ tự quản và UBND phường Y, TP VT. Gia đình ông sử dụng đất đến năm 1992 thì ông chuyển nhượng cho ông BĐ_Trần Quốc Khả một phần đất với diện tích ngang 7,5m và dài 18m, tổng diện tích 135m2, giá chuyển nhượng là 03 chỉ vàng. Còn lại phần đất 2x7,5m=15m2 phía sau ông không chuyển nhượng mà chỉ cho ông BĐ_Khả mượn để sử dụng nhưng đến nay ông BĐ_Khả không trả lại cho ông mà lại đi làm thủ tục ffứng tên diện tích đất này trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông BĐ_Khả. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Khả phải trả lại cho ông 15m2 đất này.
145/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1295
- 15
Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Bà NĐ_Ngọc và ông BĐ_Đào Anh Tính có ký hợp đồng ngày 01/11/2006 cho ông BĐ_Tính thuê QSD đất của NĐ_Ngọc tại phường PT, Thị xã BR để kinh doanh nhà hàng ăn uống, thời gian thuê 01 năm, giá thuê là 30.000.000đ/năm. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, mẹ bà NĐ_Ngọc là LQ_Nguyễn Thị Mộng thay mặt bà NĐ_Ngọc giao dịch với ông BĐ_Tính. Theo cam kết trong hợp đồng thì ông BĐ_Tính phải trả toàn bộ tiền thuê ngay sau khi ký hợp đồng, nhưng thục tế ông BĐ_Tính chỉ mới đưa trước 10.000.000đ và trong số này, bà chỉ nhận 8.600.000đ vì đồng ý hỗ trở lại cho ông BĐ_Tính 05 xe đất san lấp trị giá 1.400.000đ. Sau đó ông BĐ_Tính đã xây dựng quán và kinh doanh ăn uống, nhưng không thanh toán nốt số tiền còn lại cho bà, Ngày 04.11.2007, hai bên ký bản thanh lý hợp đồng, bà đã tự nguyện bớt tiếp 10.000.000đ trong số 20.000.000đ còn lại. Ông BĐ_Tính cũng đã cam kết trả đủ 10.000.000đ còn lại vào ngày 10/12/2007 để xin ký kết hợp đồng mới. Tuy nhiên ông BĐ_Tính không trả tiền mà còn tự ý xây thêm trụ cổng và vẫn tiếp tục kinh doanh cho đến nay. Tại Tòa án, bà yêu cầu ông BĐ_Tính trả lại mặt bằng đất, không yêu cầu ông BĐ_Tính trả thêm bất cứ khoản tiền nào mà còn hỗ trợ thêm cho ông BĐ_Tính 20.000.000đ.