cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

96/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1938
  • 38

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

21-04-2008
TAND cấp tỉnh

Ngày 16-3-2007 vợ chồng bà ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất cho ông BĐ_Lê Văn Bính, giá tiền chuyển nhượng là 26.000đ/m2 X 7.350m2 = 191.100.000đ. Cùng thời điểm này bà NĐ_Nguyễn Thị Bến là em ruột của ông NĐ_Thu thừa kế diện tích 7.350m2 đất của bà Nguyễn Thị Quê để lại sau khi chết vào năm 1998. Ông NĐ_Thu đồng ý cho bà NĐ_Bến chuyển nhượng luôn cho ông BĐ_Bính nên cùng vợ chồng bà đứng tên chuyển nhượng tổng diện tích 14.700m2. Tổng số tiền là 382.200.000đ. thực hiện hợp đồng phía ông BĐ_Bính viết một tờ hợp đồng ghi ngày 16-3-2007, cả 04 người cùng ký tên ông BĐ_Bính giao 65.000.000đ tiền cọc, số còn lại 317.000.000đ ông cam kết sẽ trả vào ngày 16-4-2007 và 16-5-2007, mỗi lần giao 158.600.000d và mỗi lần trả cách nhau 30 ngày rồi vợ chồng bà và bà NĐ_Bến tự chia cho nhau.


110/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1770
  • 45

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

21-04-2008
TAND cấp tỉnh

Ông NĐ_Phan Trung Thành trình bày: Vào năm 2000 ông BĐ_Tranh vay của ông 5.000.000 đồng và năm 2001 ông BĐ_Tranh vay thêm 10 chỉ vàng 24k, tiền 10.000.000 đồng, lãi sụất thỏa thuận là 50%/năm, thời hạn vay là 12 tháng, nhưng ông BĐ_Tranh không trả vốn vay và lãi suất cho ông. Đến tháng 1-2002, ông BĐ_Tranh kêu bán 11 công đất lúa tầm 3 mét, giá 12,5 chỉ/công bằng 137,5 chỉ vàng 24k; trừ nợ vay 60 chỉ, ông trả cho ông BĐ_Tranh 77,5 chỉ. ồng và ông BĐ_Tranh có làm giấy tay và ông cho ông BĐ_Tranh thuê lại 200 giạ lúa/năm/11 công; ông BĐ_Tranh đã thuê đến năm 2005 là 3 năm nhưng ông BĐ_Tranh không trả lúa thuê cho ông. Từ đó ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi Tòa án hòa giải thì ông BĐ_Tranh thống nhất trả cho 160 chỉ vàng 24k. Năm 2006 ông BĐ_Tranh thống nhất giao cho ông 16.848,9m2 đất lúa để trừ 160 chỉ vàng 24k. Sau đó ông cho con tên là LQ_Phan Ngọc Minh đứng tên, ngày 21-4-2006 ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho LQ_Phan Ngọc Minh và vợ là LQ_Nguyễn Thị Niên; LQ_Minh cho LQ_Văn Thanh Vĩnh thuê hàng năm. Nay ông yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và ông BĐ_Tranh và yêu cầu được tiếp tục canh tác 16.848,9m2 đất lúa mà ông BĐ_Tranh đã giao cho ông.


365/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1025
  • 23

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

17-04-2008
TAND cấp tỉnh

Ngày 12-8-2001, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Quang Tà, bà LQ_Lê Thị Ngọc Ba có chuyển nhượng cho bà BĐ_Nguyễn Thị Kiều phần đất thổ vườn tại số 2C63 ấp 2, xã PVH, huyện BC có diện tích 1.000 m2, thuộc thửa số 77, tờ bản đồ số 7, xã PVH, huyện BC, thành phố HCM, với giá 120.000.000 đồng tương đương 25 lượng vàng SJC. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng, bà BĐ_Kiều đã đặt cọc 20.000.000 đồng, sau đó ông NĐ_Tà có mượn thêm 5.000.000 đồng. Tổng cộng ông NĐ_Tà nhận của bà laf 25.000.000 đồng. Vào thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng thì phần đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. đến ngày 21-12-2001, vợ chồng ông NĐ_Tà, bà LQ_Ba được cấp giấp chứng nhận quyền sơ hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở sô 403/2001 cho căn nhà mang số 2C63 ấp 2, xã PVH, huyện BC và diện tích 211,8m2.


185/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1874
  • 47

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

17-04-2008
TAND cấp tỉnh

Bà NĐ_Võ Thị Trang và ông LQ_Huỳnh Ngọc Trà có thỏa thuận sang nhượng 30 công đất tọa lạc tại thị trấn Ba Chúc, huyện TT cho ông BĐ_Huỳnh Ngọc Hà giá là 7.000.000đ/ha. Tổng cộng 3 ha bằng 21.000.000đ (hai mươi mốt triệu đồng). Ông BĐ_Hà đưa cọc 18.000.000đ (mười tám triệu đồng) và hẹn ngày 30-4-2003 trả dứt. Nhưng sau đó ông BĐ_Hà đến lấy lại tiền cọc. Bà NĐ_Trang trình bày đã trả 12.000.000đ (mười hai triệu đồng) còn nợ lại 6.000.000 (sáu triệu đồng). Nay bà yêu cầu hủy hợp đồng sang nhượng, ông BĐ_Hà phải trả lại đất cho bà và bà trả cho ông BĐ_Hà 6.000.000đ (sáu triệu đồng).


61/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 846
  • 10

Tranh chấp thừa kế

17-04-2008
TAND cấp tỉnh

Trước khi ông Duyên chết có để lại 02 tờ di chúc: - Di chúc ngày 02-4-1960 có nội dung: Cho bà Hà Thị Hường (vợ kế của ông Duyên) 01 căn nhà và cho ông Vương Phước Trung 02 căn nhà trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT hiện nay. - Di chúc ngày 10-4-1960 có nội dung: Cho ông Vương Phước Trung toàn bộ nhà và đất tại 02A Lê Hổng Phong, PH, NT. Sau khi ông Duyên chết cha tôi là ông Vương Phước Trung quản lý toàn bộ nhà đất tại số 02A LHP, NT. Còn 03 căn nhà 02A, 02B, 02C tại đường PĐ, NT, ông Trung đứng tên cho thuê. Năm 1983 ông Trung đã làm giấy ủy quyền cho ông Thuận đi kiện đòi lại căn nhà của chủ thuê. Lúc này ông Thuận đã biết ông Duyên lập di chúc cho cha tôi là ông Trung 02 căn nhà và cho bà Hà Thị Hường 01 căn nên cha tôi (ông Trung) mới phải làm giấy ủy quyền cho ông Thuận đi đòi lại 03 căn nhà tại số 02 đường PĐ, NT. Vì tình cảm anh em nên sau khi ông Thuận đòi được 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT, cha tôi giao cho ông Thuận quản lý hết cả 03 căn nhà này.